Đăng bởi: Nguyễn Hoàng Triệu | 07/09/2011

Bố cáo

Kính thưa quý vị

Với mong muốn góp phần bảo tồn di sản văn hóa của dân tộc. Tôi nhận làm miễn phí các nghiệp vụ sau đây cho các cơ sở tôn giáo như : Đình, Miếu, Chùa.v.v… chỉ trên địa bàn Nam Bộ .

Tôi nhận giám định, phục chế và biên dịch các văn bản Hán-Nôm như : sắc phong, bia, sách vở, hoành phi, câu đối….v.v…

Tôi cũng xin được nói rõ, đây là phục chế, tức là làm cho hiện vật cũ trở nên chắc chắn hơn, tăng tuổi thọ, nhưng vẫn giữ nguyên các đặc tính lý hóa ban đầu của nó. Tôi không biết làm phiên bản, phó bản.

Quý vị có nhu cầu, xin cứ thoải mái liên hệ, tôi sẽ đến tận nơi khảo sát và cùng đưa ra hướng giải quyết cho từng trường hợp.

Xin quý vị liên hệ bằng :
Email : nguoimientay@gmail.com.

Kính cáo.

Nguyễn Hoàng Triệu

Đăng bởi: Nguyễn Hoàng Triệu | 10/06/2011

Diện mạo xã hội Nam-Bộ đầu thế kỷ 20 qua thơ Sáu-Trọng

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, diện mạo xã hội Việt Nam nói chung,Nam bộ nói riêng có sự biến đổi sâu sắc như là một hệ quả tất yếu của việc thiết lập hệ thống cai trị thực dân và việc đẩy mạnh khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Cơ cấu xã hội truyền thống Việt Nam trước đó chủ yếu thuộc dạng văn minh làng xã lấy gia đình, dòng tộc làm tế bào, đặt cơ sở trên nền sản xuất nông nghiệp lúa nước bị tấn công dữ dội, liên tục chao đảo trước việc du nhập của những làn sóng văn hóa xa lạ, một cơ cấu xã hội mới, lấy tự do cá nhân làm trọng, lấy sự phụng sự ngoại bang làm cơ hội vinh thân phì da. Đối với những người dân sinh ra và lớn lên trong xã hội truyền thống, sự hiện diện của những đội quân viễn chinh xâm lược cộng với sự biến đổi diện mạo xã hội vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX quả là một cú sốc khó có thể chấp nhận được. Từ đó, hình thành một tâm lý chống đối trong tuyệt đại đa số quần chúng bình dân. Một hành vi, một lời nói, một câu chuyện nào đó khả dĩ tác hại ít nhiều đến trật tự cơ cấu xã hội mà thực dân Pháp đang thiết lập đều được người bình dân Nam bộ đón nhận với một thái độ trân trọng. Truyện thơ Thầy Thông Chánh và truyện thơ Sáu Trọng thuộc dòng văn học dân gian phản ánh khá chân thật diện mạo xã hội và tâm lý chống đối của giới bình dân Nam bộ thời ấy.

Thơ Sáu Trọng là một truyện thơ dân gian được lưu truyền rộng rãi ởNam bộ vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và được in thành sách lần đầu tiên khoảng năm 1905. Đến năm 1916, tác phẩm này được tái bản đến lần thứ 6, dù luôn gặp phải sự cấm đoán gắt gao của nhà đương cục. Bản in năm 1916 của nhà in Bảo Tồn do nhà báo Nguyễn Kim Đính sưu tầm có độ dài 672 câu lục bát và hai lá thơ Sáu Trọng gởi cho bà con cô bác, một lá dài 34 câu, lá còn lại 62 câu. Song song đó, qua quá trình thực tế điền dã, chúng tôi bổ sung thêm cho mình được ba dị bản khác của truyện thơ này vẫn đang được lưu truyền trong dân gian. Truyện thơ kể lại cuộc đời anh chàng Sáu Trọng vốn bỏ nhà đi hoang từ bé. Đến năm 15 tuổi, Sáu Trọng trở về thăm quê, gặp và cưới Hai Đẩu làm vợ. Hai người đưa nhau về Sài Gòn sinh sống. Sau đó, Hai Đẩu ngoại tình khiến Sáu Trọng thất chí bỏ đi. Càng ngày Đẩu càng dấn sâu vào con đường tội lỗi. Cô ta lấy anh chồng Ký lục người Pháp và cùng chồng thuyên chuyển về Trà Vinh. Sáu Trọng tìm về Trà Vinh mong răn dạy vợ nhưng bị vợ vu oan khiến anh phải ngồi tù ba tháng. Ra tù, trở về Sài Gòn mới hay Đẩu mướn tay anh chị giết mình, Sáu Trọng lại quay về Trà Vinh giết chết người vợ phản bội, rồi tự nạp mình để chịu án chém.

Cả hai nhân vật chính trong truyện thơ cuối cùng đều mất mạng. Nhưng đọc xong, người đọc cứ mãi suy nghĩ không dứt ra được về cái nguyên nhân đã xô đẩy hai cuộc đời vốn xuất thân ngay trong giới bình dân ấy đi đến cái chết. Đó chính là chế độ thực dân và một cơ cấu xã hội khuyến khích lối sống thực dụng, coi đồng tiền là thước đo giá trị cuộc sống, sẵn sàng chà đạp, phá hoại các giá trị đạo đức truyền thống, từng bước chi phối nếp suy nghĩ, nếp sống từng cá nhân, từng gia đình và cả cộng đồng xã hội. Giá trị của tác phẩm chính là ở chỗ đó.

Ngay từ câu đầu tiên – “Kỷ vì thọ Pháp tân trào” –  tác giả truyện thơ, một người bình dân nào đó ở Trà Vinh, đã khẳng định, đã vạch mặt chỉ tên ngay cái nguyên nhân của mọi nguyên nhân chính là sự có mặt của chế độ thực dân Pháp trên đất nước ta. Chính chế độ ấy đã làm cơ cấu xã hội truyền thống với nếp sống truyền thống, với những giá trị đạo đức truyền thống từng bước bị đổ vỡ. Để phục vụ cho bộ máy cai trị, một số người nhanh chân nhảy ra cộng tác với nhà cầm quyền, trở thành những thầy Thông, thầy Ký, thầy Cai, thầy Đội…  Đứng trên đỉnh quyền lực của chế độ mới là những tên thực dân mắt xanh mũi lõ trực tiếp cai trị xã hội, trực tiếp nắm quyền sinh sát đối với vận mạng người dân, vận mạng cả dân tộc Việt Nam.

Để phục dịch cho bọn quan lại và cũng để bảo đảm an ninh trật tự xã hội, đàn áp những cuộc nổi dậy của nhân dân ta, ngoài đội quân viễn chinh, thực dân Pháp gom bắt thanh niên trai tráng trong làng, phiên chế vào các sắc lính khố xanh, khố đỏ, lính tập, cảnh sát… Một nghề mới được hình thành, đó là nghề đi lính cầm súng ăn lương. Tất nhiên, cộng tác với chế độ cướp nước, nhất là trực tiếp cầm súng, trong mắt người dân đương thời, họ là Việt gian phản quốc nhưng không ít trong số đó thực ra cũng vì chuyện chén cơn manh áo. Trong truyện thơ Sáu Trọng, tầng lớp này xuất hiện dưới dạng các thầy Cai, thầy Đội, mã tà:

“Mã ta, lính tập đôi bên
Đội cai súng ống trang nghiêm trong ngoài”

Những mầm móng ban đầu của quan hệ xã hội tư bản chủ nghĩa xuất hiện kết hợp với cơ cấu phản động của chế độ phong kiến là nét đặc trưng chi phối xã hội mới. Tuy nhiên, do tính chất thuộc địa kiểu cũ, thực dân Pháp chủ yếu vơ vét, khai thác tài nguyên thiên nhiên và sưu thuế nên giai cấp tư sản và giai cấp công nhân thợ thuyền vẫn còn yếu kém. Một số làng quê có vị trí thuận lợi được chọn làm lỵ sở các cấp hành chánh nên bước đầu được đô thị hóa. Những người nông dân mất đất phải rời quê hương xứ sở để trở thành thợ thuyền, lớp nghèo thành thị, mua gánh bán bưng, kể cả sự hình thành lớp người du thủ du thực mà xã hội truyền thống chưa hề có:

“Du nhàn thành thị sớm trưa
Có chàng Sáu Trọng tuổi vừa mười lăm”

Mới mười lăm tuổi nhưng Sáu Trọng đã có mấy năm du thủ du thực ở chốn thị thành. Vậy nên bản tính chân chất ruộng rẫy ngày nào đã dần phai nhạt trong anh. Trong truyện thơ Sáu Trọng, lớp nghèo thành thị xuất thân từ những người nông dân bị bần cùng hóa không phải là ít. Đó là nàng Hai Đẩu sống bằng nghề mua gánh bán bưng, sáng đầu chợ chiều cuối xóm:

“Có cô Hai Đẩu ở gần
Bán buôn chè cháo tảo tần nuôi cha”
Đó là cha mẹ Hai Đẩu trở thành những người thợ thuyền:

“Con đi xa cách đường xa
Chạnh lòng thương má với ba quá chừng
Vợ chồng lão thợ rưng rưng…”

Sự phân hóa về kinh tế sản sinh ra một bộ phận xã hội phi nông nghiệp, bao gồm bọn Tây cai trị, những nhà tư sản, giới bàn giấy phục vụ bộ máy cai trị, giới thợ thuyền… Chuyện ăn uống, sinh hoạt hàng ngày của bộ phận xã hội này làm xuất hiện tầng lớp trung gian làm dịch vụ chuyên nghiệp giữa nông thôn và thành thị, giữa nông dân và những người phi nông nghiệp. Giới làm dịch vụ được tác giả truyện thơ sáu Trọng gọi chung là “Dọn bàn”. Họ có mặt khắp các đô thị, từ Sài Gòn đến Lục tỉnh:

“Thua buồn Trọng mới tính nhăn
Xuống ở tàu hãng nấu ăn dọn bàn”

Dọn bàn nghe nói thiệt hơn
Lấy năm đồng bạc cho em về tàu”

Cũng xuất thân từ những người nông dân bị bần cùng hóa nhưng những tay có máu lục lâm giang hồ, có chút võ nghệ và sự gan dạ lợi dụng thời cuộc nhiễu nhương để trở thành dân anh chị đứng bến, sử dụng sức mạnh cơ bắp và luật rừng chuyên bảo kê cho những phi vụ làm ăn phi pháp. Trong dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 đã khắc họa không ít nhân vật điển hình cho giới anh chị giang hồ trong các tác phẩm của Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng… Nhưng ít ai biết ngay từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX một nhân vật đâm thuê chém mướn chuyên nghiệp với đầy đủ tên họ, lai lịch, cá tính… đã xuất hiện trong thơ ca dân gian Trà Vinh qua hình ảnh Năm Tỵ:

“Này đoạn con Đẩu tính xa
Gởi thơ Năm Tỵ vậy mà anh hay
Tôi giận thằng Trọng lắm thay
Xin anh giết nó để rày làm chi
Anh mà giết đặng một khi
Một trăm đồng bạc tức thì đền công”

Trong một xã hội mà tầng lớp thống trị trực tiếp là bọn thực dân từ bên trời Tây xa lạ, còn những người bị trị là cả một dân tộc đã có một nền văn hiến đã được thử thách qua hàng ngàn năm lịch sử. Vấn đề dị văn, dị chủng là một trở ngại lớn đối với bọn thực dân lúc ấy. Chính vì vậy, để bôi trơn sự vận hành guồng máy xã hội, cần có những người bản xứ được học chút ít chữ quốc ngữ, chữ Pháp hoặc chữ Latin đóng vai trò thông ngôn chuyển ngữ. Trong lúc nền giáo dục thực dân chưa kịp đào tạo đội ngũ này thì các họ đạo Công giáo – nơi mà chữ Pháp, chữ quốc ngữ, chữ Latin đang là công cụ truyền đạo của các linh mục Thừa sai – trở thành nguồn cung cấp ban đầu những chiếc cầu nối ngôn ngữ, văn hóa ấy:

“Thông ngôn nghe nói thiệt thà
Bẩm cùng Biện lý vậy mà đặng hay”

Bên cạnh nhu cầu về cai trị, về giao tiếp, xã hội mới lại xuất hiện một nhu cầu khá đặc biệt là nhu cầu hôn nhân dị chủng. Những anh chàng mắt xanh mũi lõ cần có một mái ấm gia đình sau những năm dài hành quân xâm lược. Những cô gái Việt Nam “tân thời” cần có anh chồng ngoại mưu cầu cơ hội đổi đời. Bao giờ vẫn vậy, khi có cầu ắt có cung. Nếu nhu cầu cai trị, giao tiếp xã hội do đội ngũ thông ngôn đảm nhiệm thì nhu cầu hôn nhân dị chủng có ngay chiếc cầu nối là những bà mai dẻo mồm dẻo miệng. Chuyện mai dong se duyên kết tóc cho những đôi trai gái đến tuổi thành hôn vốn là một việc nghĩa trong xã hội truyền thống nhưng để trở thành nghề kiếm tiền hẳn hoi thì có lẽ phải đến khi thực dân Pháp thiết lập chế độ thống trị ở nước ta mới xuất hiện. Chính sự bệnh hoạn của một xã hội nhố nhăng đẻ ra cái nghề quái thai ấy:

“Đẩu về ở với mẹ cha
Có chàng Ký lục Lang Sa phải lòng
Cậy dì Tư Đến mai dong
Hỏi con Hai Đẩu bằng lòng hay không ? »

Sự phân hóa về nghề nghiệp, về phương cách sống đã dẫn tới sự phân hóa về giai tầng xã hội. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp xã hội, do điều kiện kinh tế và môi trường sống khác nhau đã qui định lối sống, lối tư duy, lối sinh hoạt khác nhau, tức là xuất hiện sự phân hóa xã hội về mặt tư tưởng. Sự phân hóa về tư tưởng, nếp sống, nếp nghĩ, lời ăn tiếng nói của mỗi giai tầng xã hội Nam bộ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX được phản ánh khá rõ nét trong truyện thơ Sáu Trọng. Trước hết, những tên Tây thực dân khi sang Việt Nam tham gia vào bộ máy cai trị nhưng khi đối diện, giao tiếp với văn hóa Việt nam, ít nhiều bị ảnh hưởng bởi những giá trị văn hóa truyền thống của cái xứ sở mà mình đến để « khai hóa » ấy. Nếu những tên Ký lục, thầy Kiện… luôn mang trong đầu óc thực dân nặng nề, lúc nào cũng muốn đàn áp, bắn giết người bản xứ :

« Ký lục nghe nói ngẩn ngơ
Cầm cây súng lục muốn dơ bắn chàng »

Thầy Kiện vỗ ghế, đập bàn
Chân thời dậm đất hét vang những là »

Thì viên quan Biện lý lại tỏ ra thông cảm được với những hành vi chống đối của Sáu Trọng chẳng qua là vì bảo vệ gia phong, bảo vệ những giá trị đạo đức dân tộc :

« Tội này tuy đáng tử hình
Nhưng tao không chém lưu tình với mi »

Trong khi đó, đa số những người vì miếng cơm manh áo mang thân ra cộng tác với chế độ thực dân chỉ muốn lo tròn bổn phận, công việc của mình theo kiểu « sáng vác ô đi, tối vác về ». đó là những viên thông ngôn, những thầy Cai, thầy Đội, lính tập, mã tà… Tuy khi có điều kiện cũng kín đáo thể hiện tình cảm của mình nhưng lại không muốn vây vào những việc bàng quan thế sự vì sợ vạ lây.

Đáng lên án – và truyện thơ Sáu Trọng đã lên án khá gay gắt – là một bộ phận xã hội không giữ được mình, để cho tư cách đạo đức trượt dài trên con đường suy đồi. Họ sống bất chấp đạo đức, bất chấp luân thường đạo lý, bất chấp dư luận xạ hội. Hãy nghe nhân vật Tư Đến – người chuyên sống bằng nghề mai dong cho những cuộc hôn nhân dị chủng – cụ thể hóa đến lạnh lùng khi định giá bằng tiền chuyện tình duyên con người :

« Tư Đến nghe rõ nguồn cơn
Kêu thầy Ký lục mới đờn nhỏ to
Mai dong kiếm chuyện mà o
Bụng thầy thương nó muốn cho mấy đồng
Lễ nghi năm chục mới xong… »

Khi dịch vụ mai mối hoàn tất, mụ nhận ngay tiền huê hồng hai mươi phần trăm trên tổng giá trị thương vụ :

« Con Đẩu lấy bạc mười đồng
Đem ra đáp nghĩa đền công ơn dì »

Rau nào sâu thấy, nhác thấy hơi tanh của đồng tiền, vợ chồng lão thợ đổi ngay thái độ, dễ dàng chấp nhận chuyện dối chúa lộn chồng của con mình, dễ dàng chấp nhận chàng rễ dị văn dị chủng :

« Vợ chồng lão thợ rưng rưng
Rễ con có ngỡi chạnh lòng ngẩn ngơ »

Nhưng điển hình cho sự tha hóa, suy đồi về đạo đức chính là nhân vật Hai Đẩu. Ngày còn tấm bé, Hai Đẩu sống trong cảnh nghèo khổ, phải tảo tần mua bán để kiếm sống thì chuyện có được tấm chồng đàng hoàng đã là cả một ước mơ :

« Đẩu rằng : – Lòng khiến thương anh
Cháo chè dẩu lạnh cũng đành dạ tôi
Chẳng qua duyên nợ trời xuôi
Dầu cha mẹ giết, chết tôi cũng đành
Đẩu thề chứng cớ cao xanh
Nguyện cùng thiên địa lấy anh trọn đời »

Nhưng khi đôi vợ chồng trẻ chuyển về Sài Gòn, Sáu Trọng một mình bươn chải lo trong lo ngoài thì Hai Đẩu từng bước sa chân vào sự cám dỗ của cuộc sống hưởng thụ chốn phồn hoa :

« Đủ đồ vi kiến trong mình
Hai Đẩu ngoại tình lại lấy anh nuôi »

Một người thiếu vững vàng trong cuộc sống, lại ham thích chuyện hưởng thụ trong một xã hội nhiễu nhương đầy cám dỗ thì chuyện trượt dài trên con đường tha hóa, bỏ chồng lấy Tây là chuyện đương nhiên, không chóng thì chầy. Cô Hai Đẩu tảo tần mua bán, hồn nhiên, vô tư ngày nào trở thành một me Tây ăn chơi sành sõi. Trong cặp mắt của nhân vật Hai Đẩu, mọi chuyện trên đời không qua một chữ Tiền. Vì tiền, cô ta sẵn g bỏ chồng, sẵn sàng bán rẻ tấm thân mình. Cuộc hôn nhân với viên Ký lục chẳng qua là cuộc mua bán, có trả giá sòng phẳng :

« Em là con gái thời xưa
Qua cưới năm chục có  vừa ý không »

Vì tiền, Hai Đẩu có thể bán mình thì đối với cô, mọi chuyện trên đời đều có thể giải quyết bằng tiền. Vậy nên không có gì là khó hiểu khi để đề phòng hậu họa, Hai Đẩu thuê tay anh chị giang hồ Năm Tỵ giết chết người chồng cũ Sáu Trọng :

« Này đoạn con Đẩu tính xa
Gởi thơ Năm Tỵ vậy mà anh hay
Tôi giận thằng Trọng lắm thay
Xin anh giết nó để rày làm chi
Anh mà giết đặng một khi
Một trăm đồng bạc tức thì đền công »

Với đồng tiền, Hai Đẩu chưa thể giết được Sáu Trọng bằng luật rừng thì sau này viên Ký lục, lại bằng những đồng tiền nhiều hơn, đã thuê hệ thống pháp luật thực dân kết liễu tính mạng chàng :

« Có quan thầy kiện một khi
Ở đâu đi đến vậy thì không hay
Cùng thầy Ký lục ở ngoài
Ló trong túi áo một vài tờ săn
Thầy kiện vỗ ghế, đập bàn
Chân thời dậm đất hét vang những là
Quan tòa thôi mới thốt ra
– Tên này có tội luật ra chém đầu!”

Nếu Hai Đẩu là nhân vật điển hình tuyến phản diện thì tác giả truyện thơ xây dựng hình ảnh, tính cách nhân vật Sáu Trọng theo hướng đối lập – điển hình chính diện. Tuy từ thiếu thời, bị xã hội xô đẩy, Sáu Trọng đã bỏ nhà lên Sài Gòn sinh sống trong giới bụi đời nhưng sức mạnh văn hiến mấy ngàn năm của dân tộc đã giữ cho chàng trai này lối suy nghĩ, lối sống theo quan niệm trung, hiếu, tiết, nghĩa truyền thống. Ngày còn trai trẻ một thân một mình thế nào cũng được, khi có vợ con thì trách nhiệm người đàn ông trong ngoài, chàng phải chu toàn:

“Chồng thời ở với Lang Sa
Dặn vợ ở nhà gìn giữ ngoài trong
Bạc lương một tháng mười đồng
Tiện tặn hết sức mới hòng đủ ăn
Hai Đẩu tính nết lăng xăng
Ăn trơn mặc trắng, nợ nần khó khăn
Thua buồn Trọng mới tính nhăng
Xuống tàu làm hãng nấu ăn dọn bàn
Một mình nấu dọn châu toàn
Tháng lương hai chục mới an việc nhà»

Bao công việc khó khăn nặng nhọc, Sáu Trọng đều không quản ngại chỉ mong cho gia đình hạnh phúc, đủ ăn đủ mặc, tránh được mọi thị phi cuộc đời. Khi Sáu Trọng biết chắc vợ mình ngoại tình với Tám Lịch, anh tỏ ra bình tĩnh, không muốn làm lớn chuyện cho xấu mình xấu ta, chỉ mong vợ con hồi tâm tu tĩnh:

“Nghĩ lòng muốn giết cả hai
Song le chuốc oán gây thù mà chi
Thôi thì cũng đứng nam nhi
Anh nuôi lấy vợ vô nghì cả hai
Trọng buồn kiếm việc làm khuây
Bỏ đi Châu Đốc mấy ngày cho xa »

Nhưng Hai Đẩu ngày càng trượt sâu vào mê lộ suy đồi. Sáu Trọng trở về nghe bà con lối xóm kể lại chuyện vợ mình giờ đã trở thành me Tây còn ngoại tình nhăng nhít. Dầu gì, với trách nhiệm người chồng, Trọng thấy mình phải tìm gặp giúp người xưa tỉnh ngộ, dù chuyện duyên nợ không còn cũng phải sống sao cho ra người, không để tủi hổ với cha ông, xóm giềng :

« Xóm giềng to nhỏ gần xa
Vợ mầy đi lấy Lang Sa đã rồi
Sáu Trọng nghe nói dầu sôi
Anh em can gián thôi thôi chớ hiềm”

Hai Đẩu chẳng những không hồi tâm mà còn vu với tên Ký lục là Sáu Trọng tìm tới dỡ trò sàm sỡ:

“Nó là một đứa tội tù
Sài Gòn nổi tiếng ban bù mặt rô”

Nhận lời mời tới nhà tên Ký lục, dư biết chuyện vu khống của Hai Đẩu nên Sáu Trọng hiểu rằng chuyến trở lại giáp mặt với tên Tây thực dân là lành ít dữ nhiều. Nhưng đã là bậc mày râu, chẳng thể hạ mình trước uy vũ. Sáu Trọng khẳng khái đón nhận sự nguy hiểm, mặc bao lời can gián của bạn bè:

“Sáu Trọng nghe nói biết rồi
Nếu ta tới đó mạng thôi chẳng lành
Đi vô mới xứng hùng anh
Dẫu nó có bắn cũng đành dạ đây”

Kết quả chuyến giáp mặt với tên Ký lục là Sáu Trọng lãnh án ba tháng tù. Ra tù, trở về Sài Gòn, Sáu Trọng lại hay tin Hai Đẩu rắp tâm thuê anh chị giang hồ giết mình. Tới mức này thì không thể nhẫn nhịn nữa được rồi, không còn chút chi là tình nghĩa phu thê một thời đầu ấp tay gối. Sáu Trọng quay lại Trà Vinh, quyết ra tay trừ loài dâm đãng, bội phu, không còn tính người:

“Sáu Trọng mới nói một khi
Trả thù cho đặng thác thì cũng yên
Nói rồi vội vã đi liền
Xuống tàu trực chỉ thẳng miền Trà Vinh”

Cao trào của truyện thơ sáu Trọng chính là đoạn miêu tả cảnh Sáu Trọng ra tay trừng trị Hai Đẩu. Giết người, nhất là một người đàn bà chân yếu tay mềm thì không có gì là đáng nêu gương nhưng trong hoàn cảnh cụ thể của truyện thơ Sáu Trọng, đây chính là sự ra tay trừng trị của cái Thiện trước cái Ác, của đạo lý dân tộc trước lối sống suy đồi như một hệ quả của làn sóng Âu hóa, trong một chừng mực nào đó chính là phản ứng của người dân Việt trước hệ thống cai trị và trật tự xã hội mà chế độ thực dân đang dày công xây dựng. Vậy nên, đọc đoạn thơ này, chúng ta dễ nhận ra sự hả hê phóng bút của tác giả, chẳng khác nào hình ảnh một Lục Vân Tiên tả xung hữu đột trong đám Phiên quân:

“Thật chàng tích giận đã lâu
Ngày nay nghe mắng xiết bao lửa hừng
Nói rồi xách mác lại gần
Chém chơi một nhát ngã lăn nằm dài
Tiếp theo một mác ngang tai
Thọc ngay một mác trúng ngay cửa đì”

Dám làm dám chịu là khí phách của người hảo hớn. Diệt xong loài ác gian, Sáu Trọng chẳng hề trốn tránh mà đến ngay cửa công nộp mình, sẵn sàng đón nhận cái chết:

“Anh em chẳng rõ chơn tình
Tôi làm tôi chịu dám khinh luật trời
Nói rồi tức tốc chơn dời
Xách mác vậy thời tới nạp cửa công”

Thái độ bình tâm trước giờ thọ án tử của Sáu Trọng được tác giả truyện thơ đề cao như sức sống của các giá trị văn hóa truyền thống, đạo lý dân tộc muôn đời bền vững trước sự xâm lăng ồ ạt của các làn sóng văn hóa ngoại lai:

“Tràn rao khắp chốn thị thành
Dẫn chàng Sáu Trọng hành hình một khi
Trọng rằng: -Từ giã cố tri
Anh em ở lại vĩnh vi trọn bề
Anh hùng sống ở thác về
Nên hư  cũng tiếng theo lề lối xưa”

Xung quanh nhân vật trung tâm Sáu Trọng, xã hội Nam bộ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX vẫn tồn tại những người sống có nhân có nghĩa, thủy chung, hào phóng dù hoàn cảnh của họ nghèo khổ, dù xã hội xô đẩy họ vào con đường cùng buộc phải chọn lấy nghề chẳng hay ho gì. Đó là nhân vật Năm Tỵ, một tay dao búa giang hồ đâm thuê chém mướn nhưng dứt khoát không làm điều phi nghĩa, trái lương tâm:

“Năm Tỵ dở thơ xem xong
Nực cười Hai Đẩu hai lòng bội phu
Hại chàng Sáu Trọng ở tù
Vậy mà trong dạ oán thù chưa nguôi
Coi thơ tức giận một hồi
Lấy tiền không giết ai thời làm chi
Nói rồi quày quã ra đi
Kiếm thằng Sáu Trọng vậy thì cho hay”

Đó còn là những anh em “Dọn bàn”, những người lao động không tên tuổi sinh sống bằng những công việc hết sức bình thường ở Sài Gòn, Châu Đốc, Trà Vinh, ở khắp mảnh đất Nam bộ này, dù thân hay sơ nhưng cũng hết lòng đoàn kết, thủy chung, tương trợ nhau qua lúc khốn khó hiểm nguy:

“Dọn bàn nước mắt hai hàng
Ai dè mắc phải mưu gian làm vầy
Anh em ta phải giăng tay
Lên toà sanh tử chớ rày bỏ nhau”

“Dọn bàn nghe nói hãi kinh
Đồng bang huynh đệ đồng tình nuôi nhau
Anh em lớn nhỏ lao xao
Cảm thương Sáu Trọng tù lao oan tình”

“Dọn bàn mới nói lời này
Làm ơn há để trông rày trả ơn
Anh em tử  tế thời hơn
Cùng nhau huynh đệ keo sơn đời đời”

Đọc truyện thơ  Sáu Trọng, chúng ta còn nhận ra cách ứng xử, hành vi, lời ăn tiếng nói khác nhau một cách khá điển hình của các tầng lớp xã hội khác nhau. Những nhân vật Hai Đẩu, vợ chồng lão thợ, mụ mai dong Tư Đến… chỉ biết đồng tiền mà không đếm xỉa gì đến gia phong đạo lý có lối sống, lối cư xử hết sức trơ trẽn. Đối trọng lại là tuyến nhân vật Sáu Trọng, Dọn bàn, Năm Tỵ… sống có tình, có lý, cư xử điềm đạm, đĩnh đạc.

Có một chi tiết khá lý thú trong truyện thơ Sáu Trọng cần nghiên cứu là tuy lên án khá gay gắt tư tưởng, quan niệm sống hưởng thụ, chạy theo đồng tiền, Âu hóa một cách mù quáng nhưng tác giả truyện thơ vẫn nhận ra và miêu tả một cách khá sinh động cái mà hôm nay chúng ta gọi là giao lưu văn hóa. Vượt qua những dị ứng ban đầu, những giá trị tinh hoa chân chính của cả hai nền văn hóa Đông – Tây đang từng bước có sự thẩm thấu, đối thoại tiếp nhận lẫn nhau. Nếu nói sự tiếp nhận của người dân bị trị trước sự du nhập của nền văn hóa Pháp là chiều xuôi thì, ở phía ngược lại, chính những người mang tư tưởng thực dân đi khai hóa xứ người lại bị chính nét đẹp của nền văn hóa bản xứ thuyết phục và họ bị ảnh hưởng lúc nào không hay. Trường hợp những quan tòa ở Trà Vinh dùng dằng không tuyên án chém trước khí khái tiết nghĩa của tội nhân Sáu Trọng là một ví dụ:

Quan trên thôi mới xét ra
Cũng vì con Đẩu nó mà chẳng minh
Tội này tuy đáng tử hình
Song ta không chém lưu tình với mi

Chính bản thân những nhân vật thuộc tuyến chính diện mà tác giả truyện thơ đề cao như Sáu Trọng, Năm Tỵ, Dọn bàn… trong cách ứng xử, trong lời ăn tiếng nói của mình ít nhiều đã có ảnh hưởng bởi nền văn hóa Pháp. Năm Tỵ tuy khơng giết người phi nghĩa nhưng vẫn tỉnh bơ nhận tiền của Hai Đẩu; hoặc như Sáu Trọng lúc thiếu thời đã bỏ nhà đi hoang – điều này không xảy ra nếu những nhân vật này là sản phẩm thuần tuý của văn hóa Việt Nam. Điều dễ nhận ra nhất trong sự giao lưu văn hóa là giao lưu về hôn nhân và ngôn ngữ. Trong truyện thơ Sáu Trọng, cuộc đối thoại tay đôi giữa tên Tây Lý lục với Sáu Trọng là loại ngôn ngữ nửa Việt nửa Pháp rất lạ lùng mà hai bên vẫn có thể hiểu nhau được. Thậm chí chữ Pháp nguyên bản được tác giả tạo thêm nhiều âm sắc để chuyển tải trong thơ lục bát thuần túy Việt Nam một cách khá nhuần nhuyễn. Điều này vừa phản ánh một cách trung thực lời ăn tiếng nói của một bộ phận cư dân, nhất là bộ phận thị dân thời ấy lại vừa thể hiện khả năng tiếp nhận, vay mượn, chuyển hóa vốn từ nước ngoài để làm phong phú thêm kho từ vựng tiếng Việt:

“Bạc-đon, ông chớ phát-sê(1)
At-tăng mổ-rắc công-tê túc-xà(2)
A-quăng mết-trết của ta(3)
Rẽn-đia cả-xối lũy mà xổ-huê(4)
………….
Cùng thầy Ký lục ở ngoài
Ló trong túi áo cũng vài tờ săn(5)
……………..
Trọng còn nói tiếng Lang Sa
Quan trên dạy chém, tôi mà mẹc-

Truyện thơ Sáu Trọng – một tác phẩm văn học dân gian Trà Vinh khá đặc sắc. Ở tác phẩm này, người đọc dễ dàng nhận ra giá trị tố cáo tội ác của bọn thực dân Pháp cướp nước, tố cáo hệ thống cai trị của chúng nhằm đàn áp bóc lột nhân dân ta cũng như chà đạp lên các giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống của nhân dân ta… Song song đó, như mọi tác phẩm văn học chân chính khác, nó còn là tấm gương phản ánh trung thực diện mạo xã hội ở thời điểm nó ra đời. Đọc truyện thơ Sáu Trọng, người ta nhận ra một xã hội Nam bộ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đang có sự phân hóa sâu sắc, nhất là sự phân hóa về các tầng lớp, giai cấp xã hội, theo sự tác động của cơ chế kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dưới dạng thực dân phong kiến. Sự phân hóa giai tầng, nghề nghiệp kéo theo sự phân hóa nhanh chóng về mặt tư tưởng, về lối sống, nếp sống, nếp sinh hoạt, cách ứng xử và cả lời ăn tiếng nói nữa. Trong một xã hội đang phân hóa ấy, lúc ngấm ngầm lúc bộc phát diễn ra cuộc đấu tranh chống lại sự xâm lăng của hệ thống văn hóa thực dân đầy tính thực dụng, suy đồi nhằm bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Trong hoàn cảnh của giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đây đáng được xem là một thái độ yêu nước, chống giặc ngoại xâm của tác giả và cả những người đã chắt chiu gìn giữ, lưu truyền truyện thơ này mặc sự cấm đoán của thực dân Pháp.

Bài của Trần-Dũng ( vanchuongviet )

Đăng bởi: Nguyễn Hoàng Triệu | 09/09/2011

Đám cưới người Việt ở vùng đất Ngã-Năm xưa

1. Người Việt ở Ngã Năm

Ngã Năm là một huyện nằm ở phía Tây, thuộc vùng trũng của tỉnh Sóc Trăng. Đông giáp huyện Mỹ Tú và huyện Thạnh Trị. Tây và Nam giáp tỉnh Bạc Liêu. Bắc giáp tỉnh Hậu Giang.

Địa danh Ngã Năm cũng có các đặc điểm như các vùng đất phèn chua nước ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long nói chung và vùng Bạc Liệu – Hậu Giang – Sóc Trăng nói riêng. Vùng đất này, sông ngòi chằng chịt, hai bên bờ, lá dừa nước mọc um tùm, cùng với nó là ô rô, cóc kèn, choại, ráng, … Dân cư ở thành xóm dọc ven sông rạch, … Những lớp cư dân đâu đến đây mở cõi còn lưu giữ nhiều nét văn hóa dân gian độc đáo. Một trong số đó là những cách thức và những kiêng kỵ trong cưới hỏi để trai gái nên vợ thành chồng. Qua khảo sát điền dã, chúng tôi thu thập thông tin từ các bậc cao niên trong vùng, xin có vài lời miêu tả để bạn đọc gần xa thưởng lãm.

2. Các nghi thức trong lễ cưới của người Việt xưa ở Tây Nam Bộ

2.1. Cậy mai – mối

Khi trai gái trong làng, trong xóm lớn lên mười bảy, đôi mươi, một người đứng tuổi nào đó thấy trai nhà này với gái nhà kia xứng đôi thì học nói cho nhà trai biết. Nhà trai tìm tới người quen sống gần nhà cô gái nhờ tìm hiểu tuổi tác cô gái  và dọ ý nhà gái. Tuổi đôi trẻ hợp nhau (không kỵ), và nhà gái đồng ý, họ sẽ nhờ người này đứng ra làm mai. Căn cứ theo cách tính tuổi của âm lịch người ta thường cho rằng “nhất gái lớn hai, nhì trai lớn một” là tốt nhất. Những tuổi kỵ nhau không được ăn ở cùng nhau gồm: “trai lớn hơn gái sáu tuổi”, hoặc “dần, thân, tỵ, hợi”, “thìn, tuất, sửu mùi”, “tý, ngọ, mão, dậu” – những tứ hành xung cần tránh, … Sau đó, người làm mai sẽ sang nhà gái đánh tiếng ngỏ lời. Nếu nhà gái đồng ý thì các nghi thức tiếp theo sẽ tiến hành.

Cần nói ngay rằng vai trò của người làm mai (có khi ông mai, có khi bà mai) ở đây là người tác hợp cho lứa đôi, không mang tính “chuyên nghiệp”, không vụ lợi như ở các vùng miền khác. Họ được nhà trai “cậy” sang hỏi thử con gái của nhà xóm bên về làm dâu. Ông (hoặc bà) mai nhận lời, nếu kết quả tốt đẹp thì mọi việc sẽ diễn biến tiếp theo. Không được thì … thôi!

Ở vùng đất nay, nhiều khi cũng không cần phải đến ai làm mai mốt gì cả, trong đám tiệc, trên đồng áng, hay khi tát mương, dở chà, … họ đều có thể bày tỏ suy nghĩ muốn kết sui gia với người hàng xóm ấy, trọng tình người hàng xóm ấy vui vẻ nhận lời, thế là cha mẹ hai bên tự tiến hành cưới hỏi cho hai trẻ chứ cũng chẳng cần … ông mai nữa, dân gian còn đó câu ca:

Thò tay ngắt đọt trâm bầu

Anh có thương em thì thương đại, đừng thèm cầu ông mai!

2.2. Coi mắt, coi nhà

Khi người làm mai cho nhà trai hay rằng nhà gái đã đồng ý, nhà trai tiến hành lễ “coi mắt”, dân gian gọi là “đi coi vợ”.

Đi coi vợ cho con trai thường là mẹ, cha, vài ba người chị, em gái, và chú rể tương lai. Cũng có khi chỉ chàng rể tương lai, ông (hoặc bà) hoặc chú, bác (khoảng 2 – 3 người cũng được). Lễ vật để coi mắt là một chai rượu trắng. Nhà trai đến nhà gái theo ngày giờ nào đó đã định trước. Bên gái mời một vài người trong họ hàng đến và tiếp nước trà. Trong câu chuyện râm ran hỏi thăm qua lại, nhà gái cho cô gái ra chào hỏi mời nước họ nhà trai. Họ nhà trai sẽ “coi mắt” cô dâu tương lai dáng hình, gương mặt. Cũng trong  buổi “coi mắt” này, người trong họ nhà trai – thường là mẹ chàng trai – tế nhị xin phép ra sau nhà … chơi, mục đích là để “coi” luôn  … cái bếp. Tính ăn nết ở và sự khéo léo của cô gái và gia đình cũng sẽ thể hiện ở cái bếp. Cái bếp gọn gàng, ngăn nắp chứng tỏ người con gái giỏi giang, vén khéo có thể trở thành người con dâu đảm đang. Nếu hài lòng, họ đặt vấn đề xin hỏi cưới cô gái ấy. … Bên nhà gái sẽ hứa trong vài ba ngày để trả lời. Sau khi nhà trai về, cha mẹ, bà con thân tộc của cô gái hỏi ý con. Nếu cô gái lắc đầu, cha mẹ thấy chàng rể tương lai “được” thì thuyết phục, thuyết phục không được thì coi như chuyện “duyên nợ” không thành. Nếu cô gái ưng bụng gật đầu thì nhà gái cho người làm mai, hoặc trực tiếp báo tin cho bên trai hay. Lễ “coi mắt” ấy coi như thành. Nhà trai mời nhà gái sang chơi gọi là lễ “coi nhà”.

Nhà trai sẽ sang nhà gái một lần nữa. Họ cầm sang một chai rượu trắng ( với chai ngày coi mắt là thành một cặp rượu ) để mời đại diện nhà gái sang … chơi “cho biết nhà”. Cha mẹ cô gái cùng một số người nữa, theo hẹn trước sẽ sang để “coi nhà” bên trai, nơi mà con gái họ sẽ về làm dâu sau này. Khi ấy, bên trai cũng làm một bữa cơm nhỏ đãi khách. Đám “coi nhà” ngày xưa thường là để hai họ xem “môn đăng hộ đối” hay không. Tư tưởng phương Đông vẫn còn sâu nặng trong tâm thức của người Việt. Sau đám “coi nhà” nếu cha mẹ cô gái không chê “bên trai nghèo” thì coi như đầu đã xuôi, nhà trai chuẩn bị tiếp tới đám đi chơi.

2.3. Đám đi chơi

Gọi là “đi chơi” nhưng nhà trai sẽ mang sang nhà gái hai mâm đồ (thường một mâm rượu, một mâm bánh, trái). Lúc này đã có khay trầu, nhạo rượu để tiến hành các nghi thức chính thức (chư có khay hộp). Theo ngày giờ định trước, nhà trai cử trên dưới chục người “đi chơi”. Bên gái chuẩn bị cặp vịt nấu cháo để đãi. Lễ tiến hành do hai người đại diện cho hai họ, gọi là trưởng tộc (là người có kinh nghiệm ăn nói, biết nghi lễ), bên trai có một người, bên gái cũng vây. Nghi lễ tiến hành ở bàn giữa nhà. Trên là bàn thờ tổ tiên (thường có tranh thờ với bốn chữ Nho: Cửu huyền thất tổ). Bàn giữa thường có hình chữ nhật, xung quanh kê tám đến mười cái ghế cây có dựa lưng, gọi là ghế đai. Phía trái, hoặc phía phải của gian nhà có kê bộ ván ngựa. Ngoài cha mẹ của chú rể và cha mẹ cô dâu còn có một số người lớn đại diện cho hai họ ngồi để chứng kiến. Chú rể tương lai đứng khoanh tay phía đầu bàn giữa, nhìn ra cửa. Chén rượu, lá trầu được mời đại diện hai họ. Nhà trai cũng khéo léo nhờ người làm mai hỏi nhà gái “đòi” bao nhiêu, liệu có “lo” nổi không? Nhà gái đã chuẩn bị từ trước nên đưa ra những yêu cầu như “heo”, mâm bàn, tiền, … Nhà trai nghe và hứa sẽ trả lời tiếp theo sau. Đám đi chơi tiến hành đơn giản như vậy.

Chú rể tương lai lúc bấy giờ đã được tự do xuống nhà bếp phụ những công việc lặt vặt như nhổ lông vịt, nấu nước …( nhưng mục đích chính là để gặp, tiếp xúc, nói chuyện với cô gái sắp cưới làm vợ ). Sau đó, nhà gái mời nhà trai chén cháo, ly rượu cùng những lời bàn tính cho đôi trẻ sắp tới. Xế trưa, nhà trai ra về. Ngày giờ đám nói sẽ được trình sau.

Đám đi chơi xong, nếu thuận hoà, “lo” khoản nhà gái “đòi” nổi, nhà trai, nhà gái đều tìm thầy coi ngày (thường người này biết đoán ít nhiều về tướng số, hay dựa vào sách vở nào đó trên cơ sở tuổi của cô gái và chàng trai) để định ngày giờ làm đám nói, đám cưới cho đôi trẻ.

Khi từ giã ra về, nhà trai sẽ bưng mâm không mà trước đó đã mang lễ vật sang về. Nói là mâm không, nhưng bao giờ nhà gái cũng để lại một ít lễ vật gọi là “hồi mâm”. Theo đó, nếu nhà gái để hồi mâm ít nghĩa là mọi việc tốt đẹp, ngầm ý bằng lòng, nếu ngược lại nhà gái hồi mâm hơn nửa mâm trở lên là ngỏ ý không bằng lòng! Họ truyền khẩu rằng: Mâm còn, mòn mắt, là vì thế!

Coi được ngày giờ tốt, nhà trai nhờ người làm mai hoặc tự sang nhà gái trình ngày đám nói. Sau đó, hẹn ngày “nạp tài” (tức mang tiền hoặc heo sang theo yêu cầu mà nhà gái đã đưa ra trong đám đi chơi).

Cần bổ khuyết thêm rằng: nếu nhà trai thấy nhà gái “đòi” nhiều quá, không cưới nổi thì … thôi! Còn nếu đám đi chơi xong, mà gì một lý do gì đó, nhà gái “hồi” (tức không đồng ý nữa) thì nhà gái phải hoàn trả lại hai mâm đồ mà nhà trai đã mang sang.

Khách dự đám đi chơi thường là bà con thân tộc và một vài ba nhà láng giềng thân cận của nhà gái và nhà trai. Khách được gia chủ mời bằng “miệng”, một hình hình thức thông báo đơn giản. Vì là thân tình nên hễ nghe là người được mời sắp xếp công việc nhà đến dự vui vẻ.

2.4. Đám nói

2.4.1. Nạp tài đám nói

Đám nói (đám hỏi) diễn ra sau khi hai họ nhà gái – trai thống nhất ngày giờ. Khi đi sưu tầm điền chúng tôi được nghe ông Năm Diện (ấp Vĩnh Đồng, xã Vĩnh Quới, Ngã Năm) diễn giải: Theo sách xưa, tháng cưới tùy theo tuổi cô dâu (đại lợi xuất giá) như sau: Cô dâu tuổi Mẹo, Dậu :- đại lợi tháng giêng, tháng bảy. (Nhưng tập quán xưa nay hay kiêng cử tháng giêng và tháng bảy (Ngưu Lang Chức Nữ) nên đổi thành tháng sáu và tháng chạp (tiểu lợi)/. Cô dâu tuổi Dần, Thân :- đại lợi tháng hai, tháng tám/. Cô dâu tuổi Tỵ, Hợi :- đại lợi tháng ba, tháng chín/. Cô dâu tuổi Thìn, Tuất :- đại lợi tháng tư, tháng mười/. Cô dâu tuổi Sửu, Mùi :- đại lợi tháng năm, tháng mười một/. Cô dâu tuổi Tí, Ngọ :- đại lợi tháng sáu, tháng chạp (tháng 12), …

Đám nói của nhà trai và nhà gái khác nhau về qui mô. Thông thường đám nói nhà gái được tổ chức rất rình rang. Nhà trai thì đơn giản hơn; họ tập trung vào phần lễ vật sang nhà gái. Nạp tài tức là nghi thức nhà trai mang tiền sang nhà gái (thường thỏa thuận qua ông, bà mai), ngoài tiền nhà gái còn “đòi heo” (thường gọi là con nhấm, nói trại đi, vì kêu “heo” nghe !), nếu là nhắm đứng thì nhà trai phải chở cả con còn đang sống sang. Gặp bên nhà gái làm khó, đòi heo 100 kg, khi nhà trai mang sang còn thiếu vài ký thì nhà trai phải bỏ tiền bù thêm. Nhà gái dễ hơn thì đòi “nhấm nằm”, nhà trai cứ quy ra tiền, nạp đủ là xong.

Khi nạp tài, bên nhà trai còn cho riêng cô dâu “ít tiền” để cô dâu trang điểm, mua sắm những vật dụng cần thiết cho những ngày lễ sắp diễn ra.

Số tiền nạp tài còn tùy thuộc vào lượng khách mà nhà trai đi sang nhà gái lúc đám nói.

2.4.2. Nhà trai chuẩn bị lễ vật

Phía nhà trai, không che rạp, không có chuẩn bị gì nhiều, chiều tối hôm trước chỉ làm một hai con vịt nấu cháo “nhậu” lai rai cùng anh em láng giềng và bà con thân tộc. Sáng hôm sau, chỉ nấu mâm cơm cúng ông bà, cho chú rể tương lai lạy bàn thờ bốn lạy rồi lên đường sang nhà gái.

Nhà trai chuẩn bị gồm có một khai trầu rượu, trong khai ấy có một cái nhạo đựng rượu với 2 hay 4 cái chun uống rượu, một đĩa gồm 6 – 8 lá trầu têm vôi sẵn (không bao giờ là số lẻ), gói cau tươi cẩn thận. Kèm theo đó có hai cây đèn cây nhỏ để đốt lên cho trưởng tộc trình lễ.

Một khay hộp có hai cái hộp đồng thau hình ống, có nắp, dùng để đựng nữ trang mà nhà trai sẽ cho cô dâu và tiền đồng. Nhất thiết nhà gái nào cũng đòi nhà trai phải nộp sính lễ một đôi bông, bởi người ta quan niệm đời người con gái thanh tân như một đóa hoa, nên nhà trai phải có đôi bông như một lời ngợi ca đức hạnh và dung nhan cô gái:

Gió đưa, gió đẩy bông trang,

Bông búp về nàng, bông nở về anh

Người con gái chưa chồng như hoa còn búp, khi có chồng rồi như cái hoa nở. Dân gian cũng sẵn sàng phạt “một đôi bông” đối với chàng trai nào đó sổ sàng nếm trái cấm hoặc lỡ “chung vô mùng” cô gái mà anh ta để ý, khi chưa được cha mẹ cô gái cho phép!

Nếu đã định được ngày cưới, thì trong khay hộp này còn có miếng giấy điều (giấy đỏ) viết ngày giờ nhà trai sẽ tiến hành lễ cưới để trình cho nhà gái luôn. Trong khay, còn có cặp đèn cầy đỏ loại lớn và cặp liễn đối được xếp ngay ngắn để tiến hành các nghi lễ.

Lễ vật thường từ bốn đến tám mâm: một hoặc hai mâm bánh, một hoặc hai mâm trái cây, một mâm trầu, cau, một mâm rượu, một, hai mâm trà, … tuỳ theo mùa, tuỳ theo yêu cầu của nhà gái hoặc do nhà trai tự quyết định. Sản vật trong các mâm không bắt buộc, chỉ có mâm trầu, cau và hai khay chúng tôi miêu tả ở trên là không thể thiếu.

Các mâm được phủ vải điều, riêng mâm trầu cau thường cầu kỳ đậy bằng búp sen giấy cho đẹp mắt. Theo ngày giờ đã định trước, nhà trai sẽ đi bằng ghe, xuồng sang nhà gái.

2.4.3. Che rạp và chuẩn bị ở nhà gái

Đám nói ở nhà gái làm lớn hơn, có che rạp và nhóm họ từ ngày hôm trước. Chúng tôi sẽ miêu tả cách che rạp ở phần đám cưới, đây chỉ nói lướt qua. Rạp thường có một cổng chính trên có bảng đề “LỄ ĐĂNG KHOA”, và hai cổng phụ hai bên. Trong rạp sắp xếp nhiều bàn, ghế chuẩn bị đãi tiệc.

Trong thời gian thanh niên che rạp, các cô gái trong xóm đến nhà cô dâu nướng bánh kẹp, đổ bánh bò, … để đãi khách sắp tới.

Trước đây kinh tế chủ yếu là tự túc tự cấp nên có gì đãi khách nấy, ít có chuyện mua bánh ngoài chợ mang về như hiện nay.

Chiều bữa nhóm họ, nhà gái thường làm heo. Heo nhỏ thì hai ba con, heo lớn thì một con, tuỳ theo lượng khách mời mà chủ nhà tính toán. Đàn ông trong xóm đến phụ làm heo xong thì nướng vài ba miếng “thịt bánh chè” nhậu nhâm nhi, đàn bà thì chặt, xắt xào nấu. Đến tối, khi ánh đèn dầu lớn hoặc sang thì có đèn măng xông đốt sáng rực. Đàn ông, trai tráng thì nhâm nhi ly rượu đế hát ca những bài bản tài tử. Hoặc có vài bàn cờ tướng, vài bộ bài tây đánh “hoà bình”, “kéo cách-tê”, … cho rôm rả đến khuya. Các bà, các chị tiếp tục nấu các món để ngày hôm sau đãi khách và họ nhà trai nhà trai. Tối thường chủ nhà gái đãi những người đến phụ cũng như bà con họ hàng bằng nồi cháo lòng heo lớn, …

2.4.4. Nghi thức đám nói

Sáng hôm sau, đúng giờ tốt (đã được thầy coi), nhà trai đến, thành phần chứng kiến lễ như đám đi chơi, lần này những người đi theo nhiều hơn. Họ được nhà gái mời ngồi vào bàn ăn bánh uống nước.

Ở gian chính, bàn thờ, bàn giữa được bày biện như ở đám đi chơi mà chúng tôi đã nói trên. Nghi thức “đám nói” được tiến hành. Trưởng tộc nhà trai sai rể phụ bưng mâm trầu rượu vào đặt ở đầu bàn giữa, rót rượu ra hai chun, đốt hai cây đèn cầy nhỏ trong khay trầu rượu, rồi mời kính cẩn mời trưởng tộc nhà gái. Nếu trưởng tộc nhà gái thấy đủ phép, thì uống rượu và mời nhà trai vào, trước là chủ hôn (có thể là cha hoặc mẹ hay cả hai), tiếp theo là chú rể, và những người bưng mâm lễ vật (thường là 6 – 8 mâm). Vào nhà, những mâm lễ vật để trước bàn thờ, nhà gái sẽ mời nhà trai ngồi vào những vị trí riêng biệt, nhất là hai bên suôi gia sẽ ngồi đối diện nhau, theo thứ tự trưởng tộc, ông (bà) mai, cha mẹ chủ rể, họ hàng nhà trai,… Bên gái thành phần cũng tương tự, chỉ có điều ông mai là của chung “hai họ”, chú rể và rể phụ sẽ đứng gần bàn thờ, và khi mọi người ổn định chỗ ngồi xong, rể phụ sẽ rót rượu ra (khi rót rượu thì không bao giờ rót đầy, vì có người uống, có người chỉ nhấp môi một chút cho phải phép, và dù chun rượu còn hay không, rể phụ cũng rót một chút rượu mới để mời người tiếp theo). Xong tuần rượu, trưởng tộc nhà trai xin phép trưởng tộc nhà gái để tiến hành các nghi lễ, trước tiên trình lễ vật là đôi đèn cầy, đôi liễn viết bằng chữ Nho trên nền giấy hồng điều, có khi có nhủ vàng cho đẹp mắt, mâm trầu cau, rượu, trà, bánh mứt, trái cây sau đó là trình nữ trang và số tiền mà nhà trai phụ cho nhà gái làm lễ Vu quy.

Khi nhà gái đã đồng ý chấp nhận lễ vật rồi, cha mẹ cô dâu gọi cô dâu ra chào họ nhà trai. Cô dâu mặc áo dài màu, con nhà khá giả còn mặc thêm áo kép ở ngoài, áo kép cũng là áo dài may rộng hơn một chút và có tay rộng bằng ren, để có thể nhìn thấy áo dài mặc bên trong, trang điểm lộng lẫy, … Lúc này, trưởng tộc nhà trai tiến hành lễ dán liễn. Đôi liễn đối được dán ở trước cửa chính của nhà gái. Ngoài lời chúc mừng song hỉ, liễn đối còn báo cho mọi người biết con gái nhà ấy đã có chồng, một niềm vinh dự của cha mẹ cô dâu, theo quan niệm xưa đến đây con gái coi như đã báo hiếu được cho cha mẹ, không hoặc đốn, không “bỏ nhà theo trai”, … mà có người cưới hỏi đàng hoàng, …

Số nữ trang được nhà chồng cho cô dâu cũng được công bố công khai, bà mẹ chồng hoặc một người đàn bà đứng tuổi còn đủ vợ chồng, đức hạnh, con cháu đề huề, đại diện nhà trai, dắt cô dâu vào buồng để đeo bông. Nghi thức này chính thức xác nhạn cô dâu đã có chồng!, hoa đà có chủ!

Người ta giàu thì đầu heo nọng thịt

Tụi mình nghèo thì cặp vịt đôi bông

Kèm theo bông tai là các loại vàng vòng khác, tùy theo gia cảnh từng người. Bên chồng cho cô dâu mấy bộ quàn áo (phải là số chẵn thường là 4 – 6 bộ) cũng được trình cho hai họ xem. Chú rể có thể tặng cô dâu cà rá, dây chuyền hoặc đồng hồ đeo tay, …

Các mâm lễ vật mang theo cũng trình và để lên bàn thờ cúng người quá cố, sau đem ra cho hai họ thưởng thức.

Sau khi đeo nữ trang xong, cô dâu đứng lại gần chú rể, mặt tươi như hoa trong ngày hạnh phúc nhất của đời người. Đến đây, nhà gái sẽ tiến hành nghi thức “lên đèn”, người ta chọn một người đàn ông có đạo đức, vợ chồng hạnh phúc, con cái ngoan ngoãn, người này sẽ đốt hai cây đèn do nhà trai mang tới, người này cầm cặp đèn để tim chúng chặp lại rồi đưa vào ngọn đèn khác để đốt, người ta thường kiêng cử khi đốt đèn ngọn cháy ngọn không, hoặc cháy một chút rồi tắt, sau khi lên đèn xong, cha mẹ cô dâu hay trưởng tộc sẽ dâng hương lên bàn thờ, sau đó cô dâu và chú rể lạy bàn thờ bốn lạy, chú rể lạy phải cung tay, “lên gối, xuống gối”, cô dâu phải lạy thế ngồi “xếp chè he”.

Xong, đến lễ nhận mặt cha mẹ hai bên (kể từ đây chàng rể gọi cha mẹ vợ, cô dâu gọi cha mẹ chồng), đại diện nhà gái (thường là đàn bà) dắt cô dâu chào hỏi những cô, chú, dì, cậu, … “chồng”. Những người này sẽ cho cô dâu vải, vàng, tiền … mừng. (Đây là dịp họ coi như “trả nợ” cho cha mẹ của chú rể, bởi trước đây, hoặc sau này đám nói con của họ, cha mẹ của rể hiện tại cũng sẽ cho, biếu dâu họ như vậy! có qua có lại, tình thân nghĩa thuộc là thế!).

Nghi lễ đám nói kết thúc bằng bữa tiệc rượu trọng thể. Khi từ giả về, nhà gái cũng làm nghi thức hồi mâm cho nhà trai như đám đi chơi. Có điều còn ít, hay còn nhiều trong mâm lúc bấy giờ không còn nhiều ý nghĩa nữa!

Khách mời đám nói cũng như khách mời đám đi chơi. Nhà gái cũng rất kỹ lưỡng không bỏ sót người thân, bởi nếu là dòng họ, láng giềng gần mà không cho hay, có khi đến đám cưới họ “giận” không đi, bởi lẽ đám nói mọi chi phí ăn uống do nhà trai “nạp tài”, vì thế khách của nhà gái chỉ đi “ăn” mà không phải lo tiền mừng, quá biếu. Khi ra về, chủ nhà còn báo cho khách ít bánh, trái như lời cám ơn họ đã đến chia vui.

Khách mời bên đàng trai ngoài họ hàng quyến tộc, còn là những người thân tình từng “qua lại” với cha mẹ chú rể, họ sẽ được mời sang nhà gái và phải chuẩn bị quà mừng tặng cô dâu. Nếu trước đó, họ đã được cha mẹ chú rể đi đám nói cho con trai mình thì giờ coi như dịp “đáp lễ”, nếu là lần đầu thì coi như họ đang cho cha mẹ chủ rể “nợ” tình vậy!

2.4.5. Phản bái đám nói

Sau ba ngày, cha mẹ của chú rể cùng con trai sang nhà gái mang theo cặp vịt gọi là lễ phản bái. Tình thâm sui gia hai nhà càng thêm thắt chặt. Trong bữa tiệc ở nhà gái, ông mai cùng hai bên sui gia thỏa thuận tiền nạp tài đám cưới, ngày giờ cưới, cách thức đi lại rước, đưa dâu, số lượng người tham dự, …

2.5. Đám cưới

2.5.1. Thời gian tổ chức đám cưới

Sáu tháng mưa dầm lầy lội, việc đi lại trên bộ ở vùng nông thôn sông nước Ngã Năm khá vất vả, nên người ta thường thỏa thuận tổ chức cưới vợ ăn tết, tức là để sang mùa gió chướng đến trước tết tổ chức đám cưới là hay nhất. Gặt hái vừa xong, đường sá lại sạch, khô, hơn nữa củi lửa cũng không phải lo ướt, nấu nướng thuận tiện hơn, … Thường thi khoảng trên dưới từ một đến ba tháng sau ngày đám nới là người ta tiến hành lễ cưới cho hai trẻ:

Nói vợ phải cưới liền tay

Chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha

Trong thời gian chờ đám cưới nếu vì một lý do nào đấy mà hủy hôn, nêu là bên trai chủ động “hồi” thì mất sạch cửa, ngược lại nếu bên cô dâu hồi thì phải thường bồi một số tiền lớn gấp mấy lần số tiền mà nhà trai bỏ ra tổ chức đám hỏi. Cả vàng vòng nữa trang, quần áo cũng phải trả lại hết, …

2.5.2. Nạp tài đám cưới

Nghi thức này diễn ra y như nạp tài đám nói. Trước ngày cưới 5 – 10 bữa, nhà trai đem tiền, heo qua cho ngày gái chuẩn bị lễ Vu quy.

2.5.3. Hai bên trai gái chuẩn bị và che rạp

Khách mời của đám cưới đông hơn, ngoài bà con thân tộc, và những người đã từng dự đám nói chắc chắn sẽ có mặt, nhà gái, nhà trai còn mời thêm khách gần khách xa tùy thoe mối quan hệ và kinh phí tổ chức đám cưới. Trước ngày cưới năm bảy ngày chủ nhà sẽ trực tiếp hoặc “mượn” người biết lễ nghi ăn mặc chỉnh tề, sang thì áo dài khăn đóng, không thì bà bà tươm tất đến gặp trực tiếp chủ nhà thông báo đám cưới, trân trọng mời cả nhà đến dự. Ở quê, mời đám cưới là mời cả hai, ba ngày, không bao giờ mời, ai mời giờ sẽ coi như “thất lễ”, người khó tính “bắt lỗi” và không đến dự, … Đến ngày vui, có khi cả nhà cùng đến “ăn thịt heo” làng trên xóm dưới rộn ràng như hội. Dù hao tốn nhưng chủ nhà rất lấy làm hãnh diện, bởi phong tục bao đời ông bà truyền lại là vậy!

Mỗi đám cưới ở vùng nông thôn xứ dừa thường phải trải qua ba ngày. Một ngày nhóm họ, một ngày rước dâu và ngày cuối là ngày giật rạp.

Ngày nhóm họ tức là ngày đám trai gái giỏi giang rủ nhau tự nguyện đến giúp làm cỗ và trang trí dưới sự điều hành của một tổng chỉ huy. Kẻ lo mổ heo, mổ bò, người đốn tre trúc, lá dừa, đủng đỉnh (cây móc), chuối cây để dựng rạp. Chọn người khéo tay dùng cây nhà quả vườn chưng hình rồng phụng lên bàn thơ. Dùng nhen dừa, lá chuối, nhánh cây cắt ghép tranh sơn thủy. Rạp cưới đúng điệu mỗi cột đều được ốp bẹ chuối, chung quanh quấn lá đủng đỉnh bởi lá có hình răng cưa rất đẹp, xanh bền, không rụng. Đặc biệt hoa đủng đỉnh được kết làm tua rèm. Tàu dừa xé đôi chặt ngắn bớt lá, uốn hình trái tim ở bốn bề quanh rạp. Có thể lấy lá dừa thắt hình con chim, con cá treo chung quanh cho gió lắc lư nhìn vui mắt.

Trước cổng nhà người ta dựng hai cây chuối mới trổ buồng để cầu cho con cháu sinh sôi nẩy nở. Có nơi còn thắt hai con rồng phụng bằng lá dừa khiến ai nấy trầm trồ thán phục. Sau việc trang trí, dựng rạp là đến việc mượn bàn ghế, thường đến mỗi nhà lân cận mượn một bộ gồm một bàn tròn, 9 ghế đẩu (số 9 được xem là số may mắn) sao cho đủ số đã định tùy lượng khách mời.

Đám cưới cũng là dịp để các bà các chị khoe tài nấu nướng. Ai sở trường món nào được giao nấu món đó dưới sự chỉ huy thống nhất của một người bếp trưởng.

Các cô gái lo vót tăm từ cọng dừa, lại chia nhau nhóm làm bánh kẹp người xào mứt dừa, mứt chuối … ai cũng có phần việc, đây cũng là dịp chòm xóm, dòng tộc gặp mặt đông đủ chuyện trò, cười nói râm ran vui vẻ. Cũng là dịp để các bà mai, các gia đình có con trai tới tuổi để ý tìm “tân giai nhân”.

2.5.4. Nhà gái đêm nhóm họ

Đến chiều nấu nướng đã tạm xong, bà con xa gần đã đến gần đông đủ, nhà gái mời họ ăn cháo, lai rai vài ly rượu đế, có đám còn tổ chức đàn ca tài tử, vài bài bản Tây thi, Xuân tình, Bình bán, … do các “nghệ sĩ dân gian” cây nhà lá vườn tận tình phục vụ., … Hết canh hai,  khách khứa đã lác đác ra về, chỉ còn lại bà con thân tộc của cô dâu, người ta cử hành lễ “lạy xuất giá“. Ông bà nội ngoại (nếu còn tại thế) cha mẹ, chú bác, dì cậu, … của cô dâu được mời ngồi vào bàn giữa. Cô dâu đến trước bàn thờ ông bà lạy bốn lạy, kế đó lạy cha, mẹ hai lạy, sau đó theo thứ tự từ ông bà, bác, chú thím, cô dượng, anh, chị, hết bên nội đến bên ngoại,… cô dâu lạy chung 2 lạy, gọi là để từ giã “xuất giá, vu quy”, những người trong thân tộc đáp lễ bằng cách mừng cho cô dâu tiền, nữ trang, hoặc quà, để cô dâu “làm vốn” trước khi về nhà chồng. Cách lạy thì cô dâu sau khi xá rồi ngồi xuống, hai chân thu về một bên, xuôi ra phía sau, ngồi thẳng rồi chấp hai tay lại vừa xá xuống, vừa dang hai tay ra, vừa cúi đầu vừa khom lưng xuống một chút rồi cất đầu lên, thân thẳng lên, hai tay chập lại trước ngực để lạy tiếp, nếu đã lạy đủ hai lạy thì lấy hai tay chống xuống nền nhà, đứng lên rồi xá một xá.

Ngày trước khi đã vu quy là ít khi về lại nhà của cha mẹ xưa, nên trong lễ “xuất giá”, nhiều cô dâu vừa lạy vừa khóc, bởi cô dâu biết chỉ sáng mai là bước vào một cuộc mới, “trong nhờ đục chịu”. Ông bà thường bảo khấp như nữ tử vu quy nhật để nói đến tục này. Ca dao cũng có câu:

Má ơi đừng gả con xa!

Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu?

Mấy chục năm trước, tối lạy xuất giá ấy, người ta hay mở đĩa hát máy có bài vọng cổ Mẹ dạy con do danh ca Tư Sạng ca, những lời mẹ dạy con trước khi về nhà chồng thật là thực tế và đầy ý nghĩa.

Đám cưới nào cũng vậy, trong tiệc tùng, có rượu vào thì lời ra, người ta bàn luận về thời sự, văn chương, đạo lý trong những truyện Tàu, nào là Đông Châu Liệt Quốc, Tam Quốc diễn nghĩa, Hán Sở Tranh Hùng, Thuyết Đường, Thủy Hử, … Các cụ ông thì vừa nhâm nhi ngụm nước trà vừa đánh cờ tướng đến … sáng đêm!

Các bà các cô có dịp ăn mặc lịch sự, nào là áo gấm, áo the quần lãnh Mỹ A, nữ trang với những chiếc vòng chạm, cẩm thạch, dây chuyền với nhiều kiểu “mề đay”, còn hoa tai nhẫn hột cẩm thạch, sang trọng hơn với những hột xoàn chiếu lóng lánh.

Khu vực bếp núc thì luôn luôn đầy khói, tiếng chén bát khua nhau, tiếng dao bằm thịt trên thớt không ngớt, còn mùi thức ăn thoang thoảng bay xa.

Thanh niên đến giúp thường đào những lò âm sâu dưới đất để nấu nước pha trà, …

Nếu nhà trai rước dâu vào giờ thìn ( từ 7 – 9 giờ sáng) thì sáng hôm rước dâu đàng gái mới đãi ăn (ở quê người ta ăn cổ rất sớm, thậm chí có người ăn xong đám cưới rồi về còn kịp đi ruộng!), còn nếu rước dâu phải diễn ra hừng đông hoặc khuya thì nhà gái sẽ đãi bà con hàng xóm cổ cưới vào chiều hôm trước. Trong khi đãi ăn thường không thể vắng cô dâu.

2.5.5. Đêm nhóm họ bên nhà trai

Những hình thức nhóm họ bên nhà trai cũng không khác gì bên nhà gái. Bà con họ hàng tập trung lại dựng rạp, làm heo, nấu nước, chuẩn bị bàn ghế, bình tích, chung uống nước (đám cưới người ta thường dùng chung để đồng âm với chung thủy, ít ai dùng ly bởi người ta tin đó là điềm ly biệt!). Chỉ khác là khi bên gái tổ chức cho cô dâu lạy xuất giá thì bên trai các bậc trưởng thượng tập cho chú rể nghi thức lạy gia tiên và lạy ông bà cha mẹ. Lạy gia tiên (lạy ông bà khuất mặt) thì lạy bốn lạy, còn lạy ông bà cha mẹ thân tộc còn sống chỉ lạy hai lạy. Cách lạy họ không phải chấp hai tay lại mà phải cung hai cánh tay, ngón giữa và ngón đeo nhẫn tay mặt giáp mí tay trái, tạo thành một cung tròn để xá, khi lạy phải choàng tay qua đặt lên gối, chắp lên hông, … rất cầu kỳ.

2.5.6. Lễ vật nhà trai chuẩn bị đem đi rước dâu

Khai trầu hộp giống như khai trầu đám nói, một mâm trầu, mâm nầy trong người ta để cau và trầu, cau vài chục trái, trầu vài chục lá đều là số chẵn, rồi người ta đậy kín lại, làm dấu để không ai được mở ra, chờ cho đến ba ngày sau, cô dâu và chú rể trở về nhà cô dâu làm lễ “Dở mâm trầu”. Cho nên thường người ta dùng giấy bông cái hình búp sen, đủ lớn chụp lên trên mâm trầu, có một mâm đựng một đôi đèn sáp đỏ, có bắt bông rồng, phụng, tượng trưng cho câu chữ “Loan phụng hòa minh, sắc cầm hảo hiệp”, ngoài ra còn có những mâm rượu, mâm trà, mâm trái cây, mâm bánh mứt, toàn bộ những mâm này phải là số chẵn, tượng trưng cho vợ chồng mới cưới, đủ đôi, chẵn cập, những mâm nầy có thể để trần, có thể phủ giấy màu, có thể dùng cái quả có nắp đậy lại.

2.5.7. Đi rước dâu

Ngày rước dâu, nhà trai đi tới nhà gái gồm cha mẹ chú rể, 2 – 4 cặp vợ chồng người lớn tuổi, chú rể, một rể phụ, một số thanh niên, một số thiếu nữ đủ để bưng mâm và tổng số người đi tính luôn chú rể là số lẻ để khi cô dâu để khi về thêm cô dâu thành chẵn và phải chọn những người không có vấn đề rắc rối về hôn nhân, gia đình con cái. Ngày xưa, đám cưới hầu hết đều mặc quốc phục, nam áo dài khăn đống, nữ áo dài. Nhà giàu chú rể mặc áo gấm xanh bông bạc, hoặc mặc áo “thụng” là áo dài có tay rộng hơn, nhà nghèo thì cũng áo dài đen. Khăn đống gồm có bảy vòng, tượng trưng cho “thất phu”, dưới bảy vòng đó có chữ “Nhân” ( 人) là người đã trưởng thành.

Việc rước dâu vùng sông nước cũng có đặc điểm riêng, nếu nhà trai và nhà gái ở cùng xóm, có đường đi bộ thì đi rước dâu bằng bộ, nếu ở xa, cách trở kênh rạch thì đi bằng xuồng, ghe, … Số lượng ghe xuồng đi rước dâu cũng còn tùy thuộc vào thỏa thuận của hai bên, tùy theo sông lớn hay rạch nhỏ để chọn phương án tối ưu, hoặc một chiếc ghe lớn hay vài ba chiếc nhỏ cho tiện việc luồn lách vào tận rạch cùng xẻo hẹp. Trên ghe, trẻ già trai gái ngồi thành hai hàng quay mặt vào nhau chuyện trò vui vẻ. Những chiếc áo bà ba đủ màu sắc, tay cầm dù của các cô gái càng tạo thêm cho vùng sông nước một nét sặc sở đặc trưng.

Xưa mỗi khi chuẩn bị cưới hỏi ở vùng sông nước, ngoài việc chọn ngày lành tháng tốt người ta còn phải chọn con nước thích hợp cho việc đưa dâu đón dâu bằng ghe xuồng, sao cho không bị lỡ nước, mắc cạn, lỡ giờ tốt lại không lui không tới được. Việc này hai bên sui gia phải ngồi lại bàn kỹ, vẽ một sơ đồ đường thủy vào ra tiện lợi để sao cho bên đưa bên đón kịp đi kịp về trong con nước. Trên đường đi phải giữ sao cho lễ vật không “đổ bể”, lại phải canh sao cho kịp sang nhà gái vào giờ tốt để làm lễ. Có khi do đường xa, nắng mưa, nước lớn ròng bất chợt, đến sớm quá (so với giờ quy ước) nhà gái không cho vô, nhà trai phải ngồi dưới ghe hoặc “lang thang” đâu đó chờ tới giờ, nếu đi trể quá, nhà gái sẽ làm khó dễ, lúc bấy giờ vai trò của trưởng tộc sẽ thay mặt họ nhà trai xin bỏ lỗi để nghi thức rước dâu được tiến hành. Nhưng trể không hay, bởi đã qua giờ tốt, vì thế để cho chắc ăn người ta thường đi sớm hơn nhiều để trừ hao! Cũng có trường hợp do tính không kỹ giờ con nước lớn nước ròng, lại không may gặp luồng nước ngược gió ngược ghe đi chậm về không kịp nước đành phải ghé bến xa nhà, đoàn rước dâu phải đi bộ rất xa hoặc có khi phải lội bùn mới lên bờ được, ai nấy nhem nhuốc, phờ phạc dở khóc dở cười.

2.5.8. Nghi thức rước dâu bên nhà gái

Khi đến nhà gái, trước khi vào cổng rạp (cổng có chữ LỄ VU QUY phía trên), mấy đứa trẻ con chăng mấy sợi chỉ hồng, chú rể phải nhanh tay cho các em mấy đồng bạc lẻ, bọn trẻ tháo dây, trưởng tộc nhà trai dẫn đầu sẽ được phía nhà gái ra đón vào nhà chính để làm lễ. Pháo hoặc bong bóng được đốt nổ rang.

Vị trí ngồi vào bàn giữa và tiến hành các nghi thức trình rượu, dán liễn, lên đèn, trình lễ vật y như nghi thức đám nói. Khi cô dâu từ trong buồng bước ra, chú rể phải lanh mắt lẹ chân bước lại “chụp bóng” người vợ, nghĩa là chen chân đi trước, nếu không sau này sẽ bị vợ lấn lướt.

Cô dâu chào hai họ, nếu bên chồng có cho thêm cô dâu nữ trang khác nữa, thì mẹ chồng, hoặc cô hay dì chồng, …, sẽ đeo nữ trang nhà trai vừa mới cho thêm cô dâu, người đàn bà này vợ chồng phải đủ đôi, có nhiều đức tính tốt, gia đình hạnh phúc, để cho cô dâu nương nhờ đức hạnh ấy mà tạo dựng hạnh phúc cho gia đình mình.

Giá trị của liễn đối giống như liễn đối đám nói mà chúng tôi đã nói ở trên.

Sau khi đeo nữ trang xong, cô dâu đứng lại gần chú rể, một cặp tân hôn, tân lang mặc đẹp. Nghi thức lên đèn. Lạy bàn thờ của cô dâu, chú rể diễn ra như đám nói.

Lạy gia tiên xong, rể phụ rót rượu ra khai trầu rượu, để chú rể và cô dâu cung kính dâng mời cha mẹ cô dâu uống rồi mới làm lễ lạy cha mẹ hai lạy, lễ này mang ý nghĩa đền ơn dưỡng dục.

Rượu lưu ly chân quỳ tay rót

Cha mẹ uống rồi nối gót theo anh

Sau đó lạy họ, từ ông bà, chú bác, cô dì dượng, cho đến các anh, chị những lạy này mang ý nghĩ lễ ra mắt của cặp vợ chồng mới, nhất là chú rể chịu sự tôn kính những người trong thân tộc họ nhà gái. Trước khi làm lễ lạy ai, cô dâu và chú rể đều phải dâng rượu mời người đó uống trước khi làm lễ.

Lạy họ xong, cô dâu và chú rể có thể vào phòng nghỉ, ngày nay thì các đôi tân lang thường chụp anh với anh chị em, bạn bè thân tình để làm kỉ niệm, chờ hai họ ăn bánh, uống trà, chuẩn bị rước dâu. Nhà gái sẽ mang tất cả những mâm rượu trà bánh mứt vào trong, lấy mỗi thứ một phần kiếng lại cho nhà trai, gọi là “lợi quả” hay “hồi mâm”, như vậy mới lịch sự, ít ai “ăn hết” mà không chừa cho nhà trai một ít mang về.

Trước khi rước dâu, rể phụ lại rót rượu để trưởng tộc nhà trai, trình với trưởng tộc nhà gái xin rước dâu. Cô dâu và chú rể ra trước bàn thờ lạy bốn lạy rồi chú rể khoác tay cô dâu đi ra. Những người họ nhà trai là những người rước dâu sẽ ra khỏi nhà gái trước với cô dâu. Cô dâu phụ (thường là bạn thân hoặc chị em của cô dâu) đi theo che dù cho cặp tân lang, tay dâu phụ cầm thêm cái quả, trong đó đựng nữ trang, tiền bạc, … Hộp trang sức của cô dâu thường có thêm cây trâm. Dân gian cho rằng cây trâm ngoài việc trang sức còn có tác dụng ngăn chuyện bị “phạm phòng” (căn bệnh mà dân gian truyền là thượng mã phong, nếu xảy ra trường hợp ấy cô dâu dùng trâm đâm vào xương cùng của chú rể, sẽ cứu được, bà mẹ cô dâu đã dạy điều này cho con gái trước khi vu quy. Sự thật chẳng biết ra sao, bởi đó là chuyện “phòng the”.

Những người họ nhà gái đưa dâu sẽ đi theo sau, một số thiếu nữ được cô dâu “mượn” đem giúp những rương đựng những vật dụng chánh yếu về nhà chồng như quần áo, cặp gối cưới được cô dâu ra tài thêu thùa trang điểm từ trước, hai cái mền, … và đặc biệt không thiếu được là cái rổ may, trong đó có kim, chỉ, lỡ áo rách có kim mà may, vá, ít bánh để phòng khi lạ chỗ lạ nhà, lúc đói bụng có mà ăn, hột quẹt, đá lửa, … (ngày trước chỉ xài ống quạt bằng đá, tiêm gòn tẩm dầu hoặc xăng!) phòng khi tối lửa tắt đèn.

Khi đàn trai rước dâu ra về, đám cưới bên nhà gái cũng dần kết thúc. Nhà gái chỉ chừa lại một mâm để những người đi đưa dâu về ăn bữa chiều coi như lời cám ơn họ hàng đến chung vui và đưa con mình về nhà chồng!

2.5.9. Rước dâu về nhà trai

Đoàn rước dâu phải về nhà trai đúng giờ tốt đã được “coi” trước, cô dâu, sau khi hai họ đã an vị ở bàn giữa (được kê 8 – 12 ghế đẩu, họ nhà trai và nhà gái ngồi đối diện nhau), phía trên là bàn thờ được chưng dọn đẹp mắt, cô dâu chú rể vào làm lễ. Đầu tiên là lễ lên đèn (riêng liễn đối thường được dán trước khi xuất hành đi rước dâu, nên không làm lễ dán liễn như bên nhà gái). Kế đến là cô dâu chú rể làm lễ lạy gia tiên (nghi thức lạy y như bên nhà gái), kế đó rể phụ rót rượu để chú rể và cô dâu mời cha mẹ chú rể uống rượu, trước khi làm lễ lạy hai lạy, kế đó ông bà nội, ngoại, chú bác cô dì, anh chị ruột mỗi người đều được mời rượu trước khi làm lễ, lễ này mang ý nghĩa cô dâu nhận phận làm dâu và ra mắt họ nhà trai. Những người trong thân tộc sẽ mừng cho cô dâu và chú rể tiền bạc hay quà.

Song hành cùng lễ tân hôn, nhà trai tiến hành đãi tiệc, vừa mời nhà gái, vừa đãi khách mời ăn uống. Sau khi lạy họ xong, chú rể và cô dâu sẽ tiếp người nhà đãi khách, và cho đến lúc tiệc tàn sẽ tiễn đưa nhà gái về.

Mọi người đều bịn rịn chia tay, cô dâu khó cầm được nước mắt khi tiễn những người thân ra về.

Tối đến, cô dâu chú rể động phòng, ở miệt Ngã Năm – Sóc Trăng không có tục tế tơ hồng hay giao bôi. Buồng cưới được trang trí kín đáo. Bà mẹ chồng, hay cô, dì chồng, … để sẵn một cặp chiếu (nhưng không trải ra) ngay ngắn ở đầu giường, sau đó, cô dâu chú rể … tự xử! Cô dâu luôn được mẹ dặn trước khi giăng mùng, đợi chú rể vừa lên giường phải nhanh tay sập mùng cũng là để “chụp bóng” như ý mà chú rể đã làm khi tranh bước với cô dâu ở nhà gái, có nhanh tay vậy sau này mới không bị chồng ăn hiếp! Xem ra không biết “mẹo” nào hơn “mẹo” nào?

Cũng xin nói thêm, nếu cô dâu còn trong trắng trinh nguyên thì đường hoàng đi vào cửa chính của rạp phía trên có chữ “LỄ TÂN HÔN”, nếu ai đó lỡ “ăn cơm trước kẻng!” mà nhà trai biết (dù đó là do con trai mình gây ra!) thì cô dâu buộc phải đi vào cửa phụ bên hong rạp. Phiền toái hơn, mâm trầu mà nhà trai mang sang nhà gái ngày đám cưới có khi họ mua loại trầu bị úa cho những trường hợp này! Thật là:

Còn duyên kẻ đón người đưa

Hết duyên đi sớm về trưa một mình!

Nếu hai bên thương nhau đến mức không chờ được tổ chức các nghi thức cưới nói như vừa nêu, mà “gái theo trai”, “trai dắt vợ” đương nhiên là hàng xóm dị nghị, chê cười không ít, những cha mẹ hai bên (nếu động lòng thương) thì cho “tụi nhỏ” làm lễ “thú phạt”. Khi ấy, cha mẹ bên trai dắt con trai và con dâu sang nhà gái, mang theo ít trái cây, bánh nước, bên gái nhận lời đãi nước, đãi cơm rồi nhận nhau là sui gia, bên trai nhận dâu, bên gái nhận rể, nửa buổi thì về. Bên trai coi như có dâu, bên gái coi như đã gả con, nhưng rất đau lòng bởi “cha mẹ sinh con trời sinh tính”, họ coi như vô phước có đứa con hư, nên rất tủi hổ với xóm giềng, bè bạn gần xa.

Sang ngày thứ ba, sau khi khách ở xa đều ra về, mọi người lại lo “giật rạp”, dọn dẹp, trả bàn ghế. Ngày này, gia chủ còn gì mang ra hết, nâng ly tỏ lời cám ơn mọi người đã nhiệt tình giúp đỡ. Không còn phải quá lo, mọi việc đã đề huề, chủ nhà cũng đã có được nàng dâu mới, đám tiệc lại diễn ra đúng như dự tính, không có sự cố đáng tiếc nào, tiền khách mừng cũng tạm đủ để chi tiêu, nên bữa “giật rạp” giống như bữa liên hoan tổng kết, mừng công tất cả mọi người.

Sau hết, chủ nhà sẽ chọn một số “xà bần” còn dùng được, mỡ heo thắng, bánh trái đem cho hàng xóm và họ hàng quyến thuộc. Riêng ông mai thì được lĩnh “cái đầu heo” hậu hĩnh.

2.5.10. Lễ phản bái

Ba ngày sau, là ngày “Phản bái”, cô dâu và chú rể trở về nhà cô dâu, để “Dở mâm trầu”, thường cô dâu và chú rể mang theo một cặp vịt ta (vịt trắng tượng trưng cho sự trinh trắng nguyên vẹn, người ta kiêng không mang vịt tàu vì màu rằn ri), để làm thức ăn bày biện cúng ông bà. Ở vùng Ngã Năm không có chuyện đem theo đầu heo để cúng như một số vùng miền khác (nếu cô gái không còn trinh trắng, đầu heo sẽ bị cắt mất tai, gia đình nhà gái nhìn thấy như vậy phải lo “đền bù” một lượng tiền bạc nào đó xứng đáng!) Trước khi cúng, cô dâu và chú rể sẽ vào phòng, chỉ có cặp vợ chồng mới, dở mâm trầu ra, lấy trầu, cau để vào dĩa rồi mang ra bàn thờ cúng. người ta kỵ mâm trầu có người dở ra nhìn, hoặc khi hai vợ chồng dở mâm trầu ra có người nhìn thấy, họ sẽ dị nghị: người vợ sẽ cầm quyền, nếu cô dâu lấy trầu hay cau trước, ngược lại chồng sẽ cầm quyền, nếu chàng rể lấy trước.

Đôi khi vì đường xá xa xôi, vì mùa màng cấp bách hay vì lý do nào đó, trước rước dâu, nhà trai có thể xin nhà gái cho “dở mâm trầu” ngay trong ngày cưới.

Lễ Phản bái có nhiều ý nghĩa, bởi vì trong những ngày đầu, cô dâu mới gặp nhiều chuyện khó khăn trong đạo dâu con, vợ chồng, ở bên nhà chồng không dám than thở cùng ai, về lại nhà mình sẽ được tâm sự cùng mẹ hay chị em, họ sẽ giúp ý kiến, khuyến khích tinh thần, an ủi thân đơn, cảnh lạ. Phản bái còn là dịp để nhà trai “trình báo” với nhà gái tình trạng trinh tiết của cô dâu, …

Cúng ông bà bằng nồi cháo vịt xong, sui gia hai họ cùng một số thân bằng quyến thuộc và cô dâu chú rể ăn cùng ăn uống vui vẻ. Từ đây, cuộc sống của hai vợ chồng trẻ mới chấm dứt hẳn phần nghi lễ đám cưới.

3. Một vài nhận xét thay lời kết:

Ngày nay, chú rể và cô dâu tìm hiểu, quen biết nhau, mâm trầu chỉ còn ý nghĩa tượng trưng chứ ít rườm rà như ngày trước.

Ngày nay tục lạy bàn thờ ông bà người ta vẫn giữ nhưng lạy người sống kể cả cha mẹ, hầu hết được miễn, chú rể và cô dâu chỉ xá những người phải làm lễ mà thôi.

Nhớ tới đám cưới ở quê nhà, những khi giúp nấu nước, pha trà, che rạp, dọn bàn, khi làm rể phụ cẩn thận bưng khai trầu rượu, cung kính rót rượu, mời bậc trưởng thượng nhấp chun rượu lễ, để khép nép thưa trình … cũng là cái nhớ, góp thêm vào lòng nhớ cố hương.

Những thay đổi phù hợp: phương tiện di chuyển, đèn thắp sáng, hay trang phục cũng nên thay đổi: khi làm lễ ông bà mặc áo dài truyền thống, khi quay phim chụp ảnh, đãi quan khách thì com-lê, váy, …

Những điều không nên thay đổi: Đừng để những đám cưới biến thành những nỗi khổ về nợ miệng cho nhiều người, nhất là trong tình thân tộc. Cỗ bàn đãi đằng linh đình, nhạc ráp, rok thi nhau hét inh ỏi cả vùng quê thanh vắng, …

Việc nhập nhiều đám lại làm một có mặt lợi, nhưng cũng có những điều không hay, khi nó đánh mất đi quá nhiều nét đẹp trong lễ quan trọng nhất của con người, vô tình nó bị đơn giản hoá một cách quá mức …

Bài của Trần-Minh-Thương gởi cho Nguoimientay

Đăng bởi: Nguyễn Hoàng Triệu | 09/09/2011

Xóm Cù-Là ( Rạch-Giá )

Xóm Cù-Là, một tên đất ít ai biết, ở phía Nam chợ Rạch-Giá, tỉnh Kiên-Giang, là tiền trạm về kinh tế của lớp dân nghèo đi khẩn hoang phía U-Minh, ven biển vịnh Xiêm-La ăn xuống Cà-Mau. Xóm nhỏ, chợ nhỏ nhưng ở vị trí ngã ba kênh rạch nên mọc lên khu phố, quán càfê. Theo mé song nhiều quán bán bánh tét, bánh lá dừa suốt đêm, dĩ nhiên là có tiệm hớt tóc, tiệm bán thuốc phiện. Lúc rảnh rang, mấy anh thợ hớt tóc đờn ca Vọng-Cổ, chẳng ai cần biết mấy anh thợ này từ đâu tới.

Xin kể chuyện hồi tôi học chương trình thời Pháp ( như lớp 3 bây giờ ), khoảng năm 1936. Ký ức hồi 60 năm trước có thể là chuyện không thú vị đối với đa số người trung niên khoảng 50 tuổi ngày nay. Lớp người này đã thấy chiến tranh và đang thấy cuộc sống rộn rịp với hàng tiêu dùng tinh xảo, tyrẻ con thì xem truyền hình, chơi trò chơi điện tử, quần áo tương đối sạch sẽ nhờ bột giặt bán rẻ. Sau đình chiến 1954, tôi lên Sài-Gòn, tôi ngạc nhiên khi thấy kiểu xe mô-bi-lết mỏng manh có gắn máy, chạy khá nhanh, trước kia muốn gắn máy phải là xe mô-tô to, gọi là xe máy dầu. Nhớ mãi xứ Cù-Là, giồng đất cát pha gần biển, nước mặn nhưng đào giếng gặp nước ngọt, con rạch nhỏ chạy quanh co với rặng cây dừa nhỏ bé. Người dân tộc Khờ-me định cư từ lâu đời, bám đất, giử chùa. Vài người Hoa lưu lạc đến xóm Cù Là mở tiệm tạp hóa, bán càfê, gốc nông dân Triều-Châu, đánh cờ tướng giỏi, nhưng họ chẳng bao giờ biết đến Khổng-Tử, Tứ-Thư hoặc Lý-Bạch, Đổ-Phủ.

Cù-Là phải chăng là người Miến-Điện ( My-an-ma ) từ xưa đến bán thứ dầu gọi là cù-là ? Người Xiêm ( Thái-lan ) đã đến gần xóm này, nay còn tên xóm Xà-Xiêm, tức là ruộng do người Xiêm lưu lạc đến canh tác, sau khi lưu lạc thời Rạch Gầm-Nguyễn Huệ ? Suy luận thêm là quá lãng mạn, xa vời. Chợ Cù-Là nhỏ bé, nhưng là nơi được các công tử Rạch-Giá chọn làm nơi giải trí, có sòng bạc công khai, thêm đá gà.

Các cậu công tử nhà sẳn ô-tô nhưng thích đến Cù-Là, xa hơn 10 kí-lô-mét với phương tiện xe kéo. Những “ ngựa người “ chạy bộ một mạch, bụng không no, khác nước mà không dám dừng lại, trong khi các cậu ngắm nhìn hai bên lộ trải đá, đồng ruộng của cha mẹ các cậu trưng khẩn.

Cù-Là thuộc làng Cù-Hóa, trong địa bộ thời Minh-Mạng đã có mặt. Ở đây mở trường làng như cấp 1 ngày nay, ngày học hai buổi, sang từ 7 giờ rưỡi đến 10 giờ rưỡi, chiều từ 2 giờ rưỡi đến 5 giờ, nhờ đó học trò tham dự nhiều tiết mục hơn. Về ăn cơm trưa rồi phải trở lại trường, đường khá xa, qua cầu khỉ. Tôi ở trọ nhà người bác ruột, vì nơi quê nhà tận U-Minh chưa cất trường học. Bạn bè ngồi gần tôi trong lớp mang tên như Sánh, Thách, Mí, Ná, Khung, Tỷ người Hoa lai Khơ-me, lai Việt. Anh Tỷ là người Khơ-me lại Hoa học giỏi hơn hết. Nơi “ khỉ ho cò gáy “, nhưng ông bà ta nói “ ở đâu nước chảy cũng tới “, thầy giáo dạy tôi là Nguyễn-Văn-Truyện, từ Cao-Lãnh đến. Sau nầy, năm 1945 mới được hiểu thầy đã tham gia cách mạng từ năm 1930, tránh tập nã, xuống Rạch-Giá xin làm giáo viên trường làng, dạy kiểu hợp đồng ở trường làng là chuyện nhỏ, nơi đất rộng người thưa.

Bấy giờ báo chí Sài Gòn “ tiếp thị “ theo kiểu độc đáo. Gởi báo đến đọc giả xem trước, rồi đôi ba tháng sau, Ty-quản-lý của báo sẽ cho người mang chức vụ gọi là “ phái viên “ đến đòi tiền. Người phái viên này được đăng ảnh trên báo trước khi đi công tác, đề phòng trường hợp kẻ mạo danh nghĩa. Thấy phái viên mặc áo vét, thắt cà vạt, xách cặp da đến nhà “ con nợ “ , với bản kê khai những số báo đã gởi theo bưu điện. Người mua báo vui mừng, xem vị phái viên như thượng-khách, hãnh diện với chòm xóm. Thông thường, hể người thôn quê tình cờ gặp tờ báo lạ ở nhà người bạn nào đó thì cứ gởi thư đến Ty-quản-lý của báo để xin mua, chưa trả tiền cũng đã thấy báo lien tục gởi đến. Đời sống của phái-viên gẩm lại sung sướng, nơi ăn chốn ở miễn phí, chủ nhà trả nợ bao nhiêu cũng tạm được vì thiết đãi thầy phái-viên cũng là kiểu trả tiền tượng trưng rồi. Bác tôi thuộc vào hàng điền chủ nhỏ, nên đăng ký mua vài tờ báo, mua chứ ít đọc. Tôi còn bé bỏng, mới mười tuổi, nhưng thấy chữ thì ham, thích nhất là báo Điện-Tín. Người anh em chú bác ruột của tôi ở chung nhà đã học trường tỉnh ( nếu còn sống nay hơn 80 tuổi ), thích văn chương, thử viết một truyện ngắn gởi đăng báo Điện-Tín nầy, truyện Anh Ba Khổ, mở đầu :

Trên giưởng bằng vạt tre, một người đàn bà nằm thiêm thiếp, đó là vợ của anh Ba Khổ

Đại khái, vợ anh Ba đau nặng, không tiền mua thuốc, đành chờ chết. Anh Ba chỉ biết ngồi thức kế bên để an ủi, nhưng chị Ba lắc đầu, ngỏ ý muốn chết, vì sống chỉ làm phiền chồng. Câu kết ngắn gọn :

Trong nhà, chị Ba nhắm mắt, anh Ba vuốt mắt vợ mà bên ngoài, giọt mưa tí tách hảy còn

Người anh của tôi cắt bài báo, dán trong quyển tập, như là kỷ niệm quý giá của tuổi thanh niên. Rồi anh thức đêm thử làm vài bài thơ tình, viết vài bài về thời sự, nhưng chẳng thấy báo đăng. Đành bỏ nghề.

Năm ấy, năm 1936, báo Xuân Bính Tý của Điện-Tín phát hành sớm, mới nữa tháng Chạp năm Hợi là đã đến xóm Cù-Là. Tôi đọc tới lui, nào chuyện ăn Tết ở xứ người, hội hoa Anh-Đào bên Nhật, nào quảng bá thương mãi dầu cù-là, thuốc trị bịnh đàn ông, đàn bà do nhà thuốc Ông Tiên ở Phú-Nhuận bào chế. Một trang báo đập vào mắt tôi vì đề tài gần gũi, dân trong xóm thường nhắc đến chuyện “ Ăn Ong “ , tức là khai thác ong mật, loại ong rừng làm ổ trên cây, trong rừng tram bạt ngàn. Thuở ấy, rừng tràm vùng đất phèn và mặn còn nguyên sinh, trải dài khắp con đường từ Rạch-Giá lên Hà-Tiên suốt năm sáu mươi kí-lô-mét, nơi thưa, nơi rậm, là hang ổ của bệnh sốt rét do thần rừng, thần núi ngự trị. Lại có chuyện đi gặt mướn ở Ngã-Năm nay thuộc tỉnh Cần-Thơ.

Bài của Sơn-Nam

Dưới triều vua Gia-Long năm Đinh-Sửu ( 1817 ), ông bà Đổ-Công-Tường tục danh là Lãnh, người sinh quán miền Trung, đến lập nghiệp tại làng Mỹ-Trà, tổng Phong-Thạnh, thuộc tỉnh An-Giang ( Sa-Đéc ), gia cảnh khá, tính tình cương trực, nên giữ chức Câu-Đương, phân xử những vụ tố tụng trong làng.

Miếu thờ Chủ-Chợ Đổ-Công-Tường

Khẩn đất khai hoang, ông bà trồng được một vườn quít, nơi đây thuận chổ nên dân làng thường tụ năm tụ bảy để mua bán hoặc đổ chác, càng lúc càng đông. Thấy cảnh nắng mưa, số người mua bán không nơi ẩn trú, Ông Bà bèn dọn cây che mái là tạm thành một cái chợ . Trong 3 năm chổ này trở nên phồn thịnh, các tiệm buôn bên chợ Hòa-Thành ( nay là Hòa-An ) lần lần dời qua chợ Vườn Quít ( chợ Mỹ-Trà, chợ Câu Lãnh ).

Năm Canh-Thìn ( 1820 ) tiết trời biến động, bệnh dịch tả phát lên dữ dội, làm cho dân làng này chết rất nhiều. Đêm, ngày tiếng mỏ thúc, tiếng ván ngựa đánh liên hồi, tiếng kêu cấp cứu hòa lẫn tiếng khóc than, từng đám tang nối tiếp, chợ Vườn Quít bổng nên thưa thớt rồi vắng bặt tiếng người. Xóm làng phủ trùm màu thê lương tang tóc. Động lòng trắc ẩn và sẳn tình bác ái bao la. Ông Bà bèn đặt bàn hương-án giữa trời, trước sân chợ và đồng tâm khấn nguyện “ Hoàng-Thiên, Hậu-Thổ, chứng minh, Ông Bà xin chết thay cho nhân dân và cầu cho dịch trên mau chấm dứt, để đồng bào sớm thoát cảnh đau thương “ Sau lời nguyện này, Ông Bà chay lạt và khổ hạnh ba ngày, tức là từ ngày mùng 6 tháng 6 đến ngày mùng 8. Qua đến ngày mùng 9 thì Bà lâm bệnh và tắt hơi lối 10 giờ đêm. Đương việc tẩn liệm cho Bà thì Ông lại bệnh, cho đến ngày mùng 10, Ông theo Bà lối 2 giờ khuya. Chôn cất Ông Bà xong thì chứng bệnh dịch tả từ từ chấm dứt.

Để tưởng nhớ đến sự hy sinh cao quý của Ông Bà, quý vị hương-chức, thân-hào, nhân sĩ và dân chúng cùng nhau lập miếu phụng thờ, lấy ngày mùng 9, mùng 10 tháng 6 ( ÂL ) làm ngày Vía của Ông Bà để dâng lễ mổi năm. Ngôi chợ Vườn Quít, được dân chúng ghép tục danh với chức Câu-Đương của Ông thành tên là chợ Câu-Lãnh. Sau này gọi trại ra thành Cao-Lãnh.

Năm 1916 có một số đồng bào miền Trung và miền Bắc, đến làm ăn tại làng Mỹ-Trà chẳng may bị mắc bệnh do không hợp phong  thổ. Họ đến cầu nguyện với Ông Bà, được Ông Bà ứng mộng dạy “ Dùng nước trắng và cầu nguyện với Ơn Trên rồi cho bệnh nhân uống “, họ vâng lời, thế là hết bệnh. Đồng bào hai miền liền xin với Hội Miếu để thành lập một hội cúng tế kỷ niệm Ông Bà là ngày 16 và 17 tháng Ba ( ÂL ) hằng năm.

Với tấc lòng ngưỡng mộ và tôn kính Ông Bà, ông Huỳnh-Kim-Sanh, Đại-hương-cả làng Mỹ-Trà, nhờ ông Đốc-phủ-sứ Lê-Văn-Giáp chủ quận Câu-Lãnh, thỉnh cầu Triều-Đình Huế sắc phong Thần cho Ông Bà. Đến năm 1936 thì được chiếu-chỉ của Vua. Dưới đây xin trích một đoạn trong sắc-phong của Ông Bà :

“ Sắc : Tỉnh Sa-Đéc, xã Mỹ-Trà. Phụng sự khai lập thị ấp Câu-Lãnh Đổ-Công-Tường, tôn thần mẫn trứ, trứ kim phỉ thừa hiểm mạng, miện thần trước phong vị vực. Bảo-Trung-Hưng-Linh-Phò chi Thần. chuẩn kỳ phụng sự. Thứ cơ khẩn kỳ tương hựu. Bảo ngã lê dân. Khâm tai. “

Bao-Đại thập niên, tứ ngoạt, thập cửu nhật.

Ngày giổ Ông Bà mùng 9, 10 tháng 06 ( ÂL )

Ngày sinh Ông Bà mùng 16. 17 tháng 03 ( ÂL )

Đăng bởi: Nguyễn Hoàng Triệu | 08/25/2011

Văn hóa ẩm thực Nam-Bộ

Lời mở

m thực là tiếng dùng khái quát nói về việc ăn và uống. Văn hóa ẩm thực bao gồm cả cách chế biến, bày biện và thưởng thức từng món ăn, thức uống, từ đơn giản, đạm bạc đến cầu kỳ mỹ vị. Chung nhất là vậy, song khi nói đến văn hóa ẩm thực ở một vùng/miền nào đó thì nhất thiết phải nói lên “đặc điểm tình hình” mới có thể nêu được bản sắc văn hóa đặc trưng cụ thể của vùng/miền ấy.

Ở Nam Bộ đâu đâu cũng đất rộng sông dài, nơi nào cũng kinh rạch chằng chịt lại lắm lung, hồ, búng, láng…, không nơi nào không nhung nhúc cá, tôm, rắn, cua, rùa, ếch… đã vậy còn có cả rừng già, rừng thưa, đầy dẫy chim muông, thú to, thú nhỏ. Phía này thì “năm non bảy núi” trập trùng, không biết cơ man nào là “sơn hào”, còn phía nọ thì biển Đông, biển Tây, toàn là “hải vị”!

Nhưng để có được một kho báu “trên cơm dưới cá”, người Nam Bộ không thể không năng động sáng tạo trong gieo trồng, đánh bắt và khai thác chế biến. Cho dù “làm chơi ăn thiệt” người Nam Bộ bao đời nay đã đầu tư không biết bao nhiêu là tim, là óc mới có được thành quả khả quan đầy trí tuệ như ngày hôm nay. Nhờ được kế thừa, phát huy và liên tiếp khám phá, sáng tạo mà văn hóa ẩm thực ở Nam Bộ ngày càng phong phú, đa dạng. Từ đó, miếng ăn và “thói ăn” của người Nam Bộ có những cái rất đặc sắc, rất riêng. Nhưng cái riêng ấy không ngoài cái chung của dân tộc Việt Nam nghìn năm văn hiến:

– Ăn để sống chứ không phải sống để ăn.

– Ăn theo thuở ở theo thời.

– Ăn coi nồi ngồi coi hướng.

– Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm…

Ngày nay, do số dân tăng nhiều, kỹ thuật đánh bắt, khai thác tiến bộ hơn xưa (cũng không loại trừ những cách đánh bắt mang tính hủy diệt!). Cho nên song song với việc diện tích đất, rừng, lung, láng đã giảm, đồng thời chim thú, cá, tôm cũng do vậy mà phải ngày một ít đi. Nhưng không vì thế lại khan kiệt thiếu đói, trái lại người Nam Bộ đã biết cách tăng cao năng suất, chất lượng và cả sản lượng lương thực, thực phẩm. Nếu lúa gạo của Việt Nam từ lâu đã là thứ hàng hóa xuất khẩu được xếp đứng thứ nhì trên thế giới thì, lợi nhuận thu được từ những mặt hàng thủy sản cao cấp như con tôm, con cá, đặc biệt là các loại cá da trơn – sản phẩm chăn nuôi sinh thái vùng đồng bằng sông Cửu Long – không chỉ chiếm vị trí đầu chiếu về kim ngạch xuất khẩu nước nhà, mà còn gây náo động chính trường một số quốc gia trên thế giới. Chỉ với sản phẩm cá tra và cá ba sa thôi, các công ty và xí nghiệp chế biến thủy sản ở Nam Bộ đã cung ứng cho thị trường trong nước và thế giới, có đến hàng trăm mặt hàng khác nhau để phục vụ ngon miệng người tiêu dùng.

Thế thì văn hóa ẩm thực ở Nam Bộ phải đâu là “chuyện nhỏ”?! Vẫn biết như thế, nhưng bút mực nào, hay nói đúng hơn, tài sức nào mà ghi nhận cho hết được cái chuyện vốn “muôn hình muôn vẻ”? Thành thử chỉ xin đề cập đến “một vài”, bởi đó là những gì đã trở thành nếp, rất đặc trưng, mang tính truyền thống mà từ bao đời nay nó đã định hình và gắn dính với đời sống con người. Ở đó tất nhiên không thể không thể hiện phong cách của Nam Bộ.

Về món ăn, thức uống hiện đại được sản xuất theo lối công nghiệp (chế biến sẵn hàng loạt), cho dù đã nổi tiếng nhưng chưa “phổ cập” trong nhân dân (như món bao tử cá ba sa của xí nghiệp đông lạnh thủy sản Afiex đoạt huy chương vàng tại Hội chợ VietFish 2003 chẳng hạn, và một số món khác), chuyên trang xin được gác lại để ưu tiên giới thiệu những món ăn, thức uống hàng ngày của nhân dân. Trên chuyên trang này, những món từng “vang bóng một thời” tất nhiên cũng sẽ được “dọn lên” để kính mời người đọc thưởng thức, bởi đó là những dấu ấn khó quên của một giai đoạn văn hóa, lịch sử nhất định – cho dù rất dân dã, rất đạm bạc.

Văn hóa ẩm thực là văn hóa phi vật thể, việc nhấn mạnh những nét tinh tế về phong cách và thẩm mỹ là điều không thể không quan tâm, nhưng lẽ nào khi đề cập đến món ăn mà không giới thiệu đặc điểm của nguyên liệu, và nói qua ít nhiều cách chế biến?

Tuy nhiên do không phải hướng dẫn cách nấu ăn, nên ở đây chỉ chú trọng về nghệ thuật sáng tạo – tư duy của dân gian trong chế biến và thưởng thức. Do đó các chi tiết về cân lượng sẽ được đề cập rất phớt lược, thậm chí lướt qua. Chủ đích của vấn đề là biết xưa để xử nay, để tự hào – như một cách trung chuyển hầu cùng nhau giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa ẩm thực độc đáo dân tộc.

Trong tinh thần đó, chúng tôi xin được phép lần lượt giới thiệu…

Ẩm thực ở Nam bộ

Do đặc điểm địa hình và sinh hoạt kinh tế, văn hóa Nam Bộ đã định hình nền văn minh sông nước, ở đó nguồn lương thực – thực phẩm chính là lúa, cá và rau quả kể cả các loại rau đồng, rau rừng. Từ sự phong phú, dư dật ấy mà trải suốt quá trình khai hoang dựng nghiệp, món ăn, thức uống hàng ngày của người Nam Bộ cho dù trong hoàn cảnh nào, thiếu thốn đạm bạc, hay đầy đủ ngỏa nguê, họ không thể không khám phá và sáng tạo nhiều phương thức nuôi trồng, đánh bắt để chế biến vô số miếng ngon một cách có bài bản từ những đặc sản của địa phương. Với phong cách thưởng thức “mùa nào thức nấy” và quan niệm “ăn để mà sống” hầu có đủ dưỡng chất tái tạo sức lao động, họ đã tỏ ra rất sành điệu trong việc phối hợp các yêu cầu cao nhất của miếng ăn: thơm, ngon, bổ, khỏe. Câu nói “ăn được ngủ được là tiên” rất được người Nam Bộ quan tâm, xem trọng, cho nên ngồi vào bàn ăn, khi chủ nhà giới thiệu món nào, dù là cá thịt hay rau quả, kể cả rượu, họ thường nhắc nói: ăn món này bổ xương, hoặc trị suy dinh dưỡng, bổ gan, bổ phổi…; rượu thuốc này giải quyết được bệnh “tê bại” nhức mỏi; tráng dương, bổ thận v.v… Và không quên “động viên” gắp đũa nằm, hoặc dùng muỗng múc (mới được nhiều), cứ tự nhiên, hãy ăn thiệt tình “đừng mắc cỡ”, thậm chí ép ăn! Dùng bữa, thấy khách ăn nhiều, ngon miệng chủ nhà không thể không cảm thấy sung sướng, hài lòng.

Khẩu vị của người Nam Bộ cũng rất đặc biệt: gì ra nấy! Mặn thì phải mặn quéo lưỡi (như nước mắm phải nguyên chất và nhiều, chấm mới “dính”; kho quẹt phải kho cho có cát tức có đóng váng muối); ăn cay thì phải gừng già, cũng không thể thiếu ớt, mà ớt thì chọn loại ớt cay xé, hít hà (cắn trái ớt, nhai mà môi không giựt giựt, lỗ tai không nghe kêu “cái rắc”, hoặc chưa chảy nước mắt thì dường như  chưa… đã!). Nói đến cay mà không đề cập và nghiên cứu khẩu vị của người Nam Bộ khi ăn tiêu hột hoặc tiêu xay là cả một sự thiếu sót, bởi tiêu đâu chỉ là cay mà còn ngọt! Vì sao “Ví dầu cá lóc nấu canh/Bỏ tiêu cho ngọt bỏ hành cho thơm”?  Phải hết sức tinh tế mới hiểu được trọn vẹn bản chất của tiêu. Thật vậy, nếu ta thử nghiệm: nêm hai tô canh (hoặc cá kho) vẫn với các thứ gia vị giống nhau nhưng nếu một trong hai tô canh không “bỏ tiêu” thì nhất định tô ấy sẽ thiếu chất ngọt ngay – cho dù đã có đường, bột ngọt, nhưng vẫn thấy không ngọt đặc biệt như tô có bỏ tiêu! Còn chua thì chua cho nhăn mặt mới “đã thèm”; ngọt (chè) thì phải ngọt ngây, ngọt gắt; béo thì béo ngậy; đắng thì phải đắng như mật (thậm chí ăn cả mật cá, cho là “ngọt”!); còn nóng thì phải “nóng hổi vừa thổi vừa ăn”…

Vì sao khẩu vị người Nam Bộ lại “quyết liệt” như thế? Vấn đề đặt ra chẳng ai giải thích được tại sao ngoại trừ người Nam Bộ lớp trước hoặc những nhà nghiên cứu về văn hóa ẩm thực vùng đất này. Đó chẳng qua là dấu ấn sắc nét thời khai phá. Thuở ấy, con người ở đây một mặt phải ra sức khống chế thiên nhiên, thường xuyên đương đầu với nhiều loại thú dữ – nói chung là phải đối phó với vô vàn gian nan khổ khó, một mặt phải “tay làm hàm nhai”. Có được “ba hột” no lòng không ai không biết rằng “dẻo thơm một hột đắng cay muôn phần”, cho nên người Nam Bộ không dám hoang phí làm rơi vãi hột cơm, hột gạo, mà đều xem đó như “hột ngọc”. Có cơm ăn thôi là đã mãn nguyện, dám đâu nghĩ tới chuyện vẽ viên cầu kỳ, thịnh soạn! Do thế mà chúng ta không lấy gì làm lạ khi được biết, xưa người ở vùng này (Nam Bộ) có “tài” ăn mặn, rất mặn, đến nỗi “có người trong một bữa ăn, ăn hết hai ống mắm, độ hơn 20 cân, để làm trò vui trong khi đố cuộc nhau”! Còn uống thì, vẫn theo sách Gia Định thành thông chí, ông Trịnh Hoài Đức đã ghi nhận trường hợp ông Nguyễn Văn Thạch nào đó đã từng uống trà Huế (đố cuộc) bằng cách “dùng một cái vò rồng lớn miệng, rót ra bát lớn, uống luôn một hơi, mình ông mặc áo đôi, mồ hôi đổ như nước tắm, giây lát uống hết nước ấy, lấy được tiền cuộc”. Rõ ràng, uống được thật nhiều nước trà nóng sôi ngay khi mới rót ra chén mà không phỏng miệng là cả một sự tài.

Những trường hợp vừa nêu tuy cá biệt nhưng cũng đã nói lên được đặc trưng khẩu vị con người của một vùng đất. Nhưng đó là khẩu vị của ngày trước. Nay tuy Nam Bộ đã qua rồi giai đoạn cực kỳ gian nan khổ khó, khẩu vị của họ cũng theo xu thế ăn sang mặc đẹp mà thay đổi: lạt hơn, ngọt hơn, nhưng những món ăn ghi đậm dấu ấn thời khẩn hoang vẫn hãy còn đó mà đại biểu là cá lóc nướng trui, rắn nướng lèo, mắm kho, mắm sống… Người Nam Bộ chẳng những không mặc cảm mà còn tự hào, phát huy để nhắc nhớ cội nguồn, tri ân người mở cõi. Nếu những món ăn độc đáo ấy vẫn tồn tại, vẫn hiện diện trong bữa cơm gia đình và cả trong nhà hàng sang trọng thì khẩu vị và cung cách thưởng thức cố hữu của người Nam Bộ vẫn được bảo lưu đến mức không thể không gây ngạc nhiên người mục kích, thí dụ như khi ăn, nhiều người không chỉ chan nước mắm vào cơm mà còn dùng muỗng húp, dường như như thế mới “đủ đô”. Và, đối với những người không quen ăn mặn có những món không cần phải chấm nước mắm, nhưng nếu trên mâm không có chén nước mắm họ sẽ cảm thấy bữa ăn mất ngon, bởi chén nước mắm là cái gì đó rất cần thiết, mà thiếu nó chịu không được! Cho nên phải có, và theo thói quen, họ vẫn đưa miếng đến chấm nhưng đó chỉ là một “động tác giả” vì hoàn toàn chưa dính một chút nước mắm nào, vậy mà ngon – không làm động tác giả như thế họ sẽ cảm thấy miếng ăn bị nhạt nhẻo!

Về nơi ăn, với những bữa cơm thường ngày trong gia đình thì tùy điều kiện không gian căn nhà rộng hay hẹp mà bố trí hợp lý: hoặc trên bàn, hoặc ngay trên sàn nhà. Nếu là bạn thân rủ nhau nhậu chơi thì có thể trải đệm dưới gốc cây trong sân vườn hay ngoài đồng, tùy thích. Nhưng khi nhà có đám tiệc thì không xuề xòa mà bày biện cỗ bàn rất nghiêm chỉnh trong tinh thần quý trọng khách mời, tạo nên nét văn hóa rất riêng mà cũng rất chung, hài hòa giữa phong tục truyền thống với đặc điểm văn minh vùng sông nước, hầu từng bước hoàn thiện nền văn hóa ẩm thực độc đáo. Độc đáo vì đã biết tận dụng, khai thác và chế biến “của trời cho” một cách kịp thời theo “đơn vị tính” thời gian là “tháng”, “ngày” thậm chí “giờ”. Thật đúng như thế nếu ai đó ở vùng đầu nguồn, có việc phải đi xa nhằm vào tháng cá mờm hoặc cá linh non xuất hiện thì đành phải chịu nhịn, vì sau đó chừng một tháng cá mờm đã lớn thành cá cơm, cá linh non cũng thế. Hoặc trong một năm mới có được mấy ngày “cá ra” (nước trên đồng giựt cạn, cá rút xuống kinh, mương để ra sông), nếu người sống nghề đánh bắt thủy sản không chuẩn bị kịp mọi việc để chặn bắt cá thì xem như năm ấy bị thất thu nguồn lợi lớn. Rau trái cũng không khác. Đặc biệt đối với rau, như bông điên điển, rau dừa, rau muống… nếu hái muộn, từ lúc trời đã trưa nắng đến chiều sẽ không giòn, mất ngon, chức năng kích thích thèm ăn, ngăn chống lão hóa của rau do đó cũng bị giảm rất đáng kể.

Nói đến văn hóa ẩm thực ở Nam Bộ mà không nhắc đến “miếng trầu” là cả một sự thiếu sót, bởi đó chính là nét lớn mang tính truyền thống chung nhất của dân tộc Việt Nam trên cả ba miền. Thật vậy “miếng trầu” từ hàng nghìn năm, nó vẫn được dân tộc ta đặc biệt quý trọng, bởi “Trầu cau là nghĩa, thuốc xỉa là tình” cho nên trong giao tiếp người ta luôn trịnh trọng đặt nó ở vị trí “đầu câu chuyện”, kể cả chuyện hôn nhân quan trọng nhất đời của một người (“Một miếng trầu là dâu nhà người”). Họ ghiền trầu đến nỗi“Miếng hạ gộng, miếng động quan”, người xưa từng “đặt vè”, và cảnh giác “Nhịn thuốc mua trâu, nhịn trầu mua ruộng”. Mặc kệ, đã ăn thì cứ ăn:

Xóm trên giăng lưới

xóm dưới bủa câu,

Làm trai chịu thảm

làm gái chịu sầu,

Ăn cơm chẳng đặng

Ăn trầu giải khuây!

Trầu là “thức ăn” đậm nét văn hóa và rất đặc trưng, đã định hình và đi vào cuộc sống như một thứ “nhu yếu phẩm”. Theo trào lưu tiến hóa và từ góc nhìn thẩm mỹ hiện đại, miếng trầu không thể không tự nhiên bị đào thải dần, nhưng trong tâm thức người Nam Bộ, “miếng trầu” vẫn để lại dấu ấn văn hóa phong tục rất tốt đẹp, rất đáng trân trọng.

Ăn trầu thì có thể ngồi nhai một mình để giải khuây, nhưng khi uống thì hầu như bao giờ cũng phải “trà tam rượu tứ”, có nghĩa rượu, trà chỉ là phương tiện nhằm “bắt chuyện” bàn luận việc đời, thời sự, làm ăn, hoặc để thể hiện tình cảm chứ ít thấy ai ngồi uống một mình.

Bài của Nguyễn-Hữu-Hiệp ( vanchuongviet )

Đăng bởi: Nguyễn Hoàng Triệu | 08/25/2011

Bàn-Thiên Nam-Bộ

Bàn Thiên ( Bàn-Ông-Thiên ) của người Nam-Bộ

Bàn thiên trước ngôi nhà tường vách mặc áo dừa nước vàng rơm, màu trái óng ả lá dừa nước, tưng bừng đón ánh bình minh, những đáo hoa xoài lai bưởi vàng rộm màu mật ong cùng với cây mãng cầu xiêm ghép bình bát, cây ổi xá lỵ nghệ,nhãn tiêu, sầu riêng, roi, saboche… bị từng cơn gió trinh nghuyên ban mai mát lành thổi tung toé chất chồng lên Bàn thiên, hương đỏ cháy toả khói bị mùi hương miệt mườn nhuộm đặc quánh thơm lừng làm đàn ong bỡ ngỡ quẩn quanh trước Bàn thiên nhuộm những tia nắng lọt qua kẽ lá xanh mượt mà, ngoài quốc lộ những đoàn xe hối hả chạy mải miết về phía núi Sam đi lễ tạ ở Miếu Bà Chúa Xứ bụi tung mù mịt nhuộm vàng quạch cả bó chân hương trên Bàn Thiên.

Bàn thiên, Buổi trưa nắng đổ như rang  nóng lá dừa nước bị hong khô nổ lép bép cong phồng lên lượn xuống oằn oại trên mái nhà. Bàn thiên vẫn bình thản lặng lẽ đứng giữa muôn nghìn tia nắng nóng như kim châm. Chân bát hương bị vắt kiệt sức những giọt sương tắm đẵm đêm qua. Những lớp bụi bị nắng mùa khô chiếu rọi rụng rơi tơi tả từ những chiếc chân hương qua làn gió nhẹ bay bay phủ kín Bàn thiên. Đĩa hoa quả với nải chuối quê buổi sáng bình minh còn lóm đốm xanh qua mấy giời nắng gắt mà nải chuối trên bàn thiên đã chín vàng rộm phô bày nét căng tròn trù phú.

Bàn thiên. Giữa nắng lửa miền Tây đổ vàng đom đóm mắt, từ ngôi nhà dừa nước nhìn ra Bàn thiên lòng bỗng dịu mát thanh thản lâng lâng.

Bàn thiên. Đêm lặng lẽ dần đến,ngoài cánh đồng những đốm lửa đốt cháy rơm rạ rực tím cả bầu trời miền Tây, triệu triệu con vịt diều căng phồng nhí nhánh tung tăng lon ton chạy về chuồng, khi con đường đã thưa thớt tiếng xe chạy, cả miệt vườn chìm vào tĩnh lặng, những chiếc lá dừa nước nhảy múa tắm gió mát lành có sương đêm như duỗi thẳng mình sau nắng  ngày căng kéo. Bóng cây ban đêm ôm trọn mái nhà vào lòng , đốm lửa hương thơm và ngọn đèn cóc trên  Bàn thiên toả sáng ấm áp trước cửa sân nhà đẩy xa bóng tối huyền bí miệt vườn với ngàn cây trái sum sê.

Bàn thiên. Đêm chỉ còn Bàn thiên là thức trắng với bầu trời cao tít tắp huyền bí vĩnh hằng canh giấc ngủ êm đềm của ngôi nhà lá dừa nước đơn sơ.

Bàn thiên. Mùa lũ sầm sập nước cuồn cuộn dâng tràn mênh mang,vườn cây ngập lụt úa vàng, ngôi nhà lá dừa  nước bị lũ cuốn phằng sân nhà chỉ còn trơ trọi chiếc Bàn thiên ngụp sâu dước nước lũ, bát hương bị lũ hất trôi.

Bàn thiên. Mặc dù cho lũ lụt, triều dương, Bàn thiên nối đất với Trời vẫn trụ lại cùng với bản địa giữa sân mênh mang cuồn cuộn sóng vỗ.

Bàn thiên! Nước lui ra biển Đông xa vời. Bàn thiên lại đón nững hạt bụi mù mịt từ đường quốc lộ với dòng xe cộ hối hả bám lại hơi hương đón mùa hoa trái trổ bông , xum xuê trái mênh mang những câu vọng cổ giao duyên cùng với nhạc trữ tình mới trên  dòng sông quê dưới đêm trăng vằng vặc ánh sáng trong suốt như pha lê say đắm mối tình quê miệt vườn thanh bình dân dã .

Bàn thiên gắn liền với tâm linh của những người dân miệt vườn đã trăm năm khai phá cùng mùa khô nắng cháy và mùa mưa nước lũ tràn lan nơi thiên nhiên vẫn thơ ngây hoang dã. Rình rập như thanh gươm vẫn treo lơ lửng trên trên trời miền Tây những cơn lũ ập về dìm sâu những vườn cây trái và những căn nhà dừa nước soi mình xuống dòng kênh sum sê um tùm dừa nước đẹp như chuyện cổ tíc từ ngàn xưa quê ta .

Bàn thiên- Trụ là gốc cây cây xoài già  và mặt là tấm gỗ dừa cổ thụ bền gan dưới nắng lửa và gan lì dưới sóng lũ hàng năm.

Ôi thiêng liêng Bàn thiên Nam bộ một phần tâm hồn của người dân Phương Nam xứ  sở của những câu vọng cổ buồn mênh mang- mượt  mà bay rập rờn cùng vườn xoài với mái nhà dừa nước giản dị khiêm nhường.

ÔI! Sức mạnh Việt nam ! Tâm linh Phương Nam! Đêm dêm hàng triệu triệu Bàn thiên Phương Nam cùng đỏ lửa hương khói thơm lừng như thề cùng Trời Đất Tổ Tiên quyết sống chung với lũ để bám trụ cùng khoảng đất trời thiên liêng bất diệt Phương Nam.

Bài của Nguyễn-Văn-Hoa ( vanchuongviet )

Đăng bởi: Nguyễn Hoàng Triệu | 08/25/2011

Chợ Vàm-Cống xưa

Lược đồ vùng Vàm-Cống

Vàm Cống hiện nay là thị trấn thuộc tỉnh Đồng Tháp. Chợ Vàm Cống được thành lập hồi mười năm đầu của thế kỷ XX. Ban sơ, dân cư thưa thớt, quán xá lèo tèo. Năm 1925 thông bắc Vàm Cống thì bộ mặt chợ này biến đổi hẳn đi. Bài phú truyền khẩu dưới đây, do ông Hương lễ Bùi Xuân Nhờ sáng tác sau đó vài năm, giúp chúng ta hình dung một Vàm Cống trên bến dưới thuyền, nét đáng yêu của đất Nam Bộ xưa.

Tân trào quản hạt.
Thuộc địa Bình Thành.
Sông Long Xuyên tỏa biết mấy ngành,
Có một ngã kêu là VÀM CỐNG,
Thấu Lấp Vò uốn quanh dài rộng,
Cồn Cái Cùng ngoài lại giăng ngang.
Bởi sông sâu nước chảy biệt ngàn
Xem hình thế như rồng uốn khúc.
Thuở xưa kia quê mùa phong tục,
Nay mở mang chợ búa hẳn hòi,
Việc bán buôn coi thế phải mòi,
Nên hành khách tới lui đông đảo.
Đời thạnh trị người thêm trí xảo,
Bước lợi danh ai cũng giành đi,
Máy tuần huờn hết thạnh tới suy,
Cơn dâu bể lở đâu bồi đó.
Thấy phong cảnh mảng còn xem ngó
Mà quên coi buôn bán làm sao?
Kìa chợ đông thiên hạ ồn ào,
Bán đủ thứ cá tôm gà vịt.
Hai bên đường ghế thì bán thịt,
Chõng bạn hàng lại dọn xen vô,
Phố giăng ngang xem tợ thành đô,
Thuyền đậu lợp như sông Xích Bích,
Sào cặm ghe dày như kiếm kích,
Dây buộc thuyền tợ khổn tiên thằng.
Cánh bạn hàng dữ tợ bà Chằn,
Quân góp chợ hung như hùm hổ!
Mấy quán cơm người ăn chật chỗ,
Tiệm nước thì bánh trái huyên thiên.
Nhóm buôn hương nhiều đứa có duyên,
Phường công tử hiếm tay anh chị.
Chợ nhỏ mà không thua thành thị,
Chành lúa thì dãy dọc dãy ngang,
Sắp “cu ly” đội lúa có hàng
Lên xuống thể quan ba tập lính.
Tài phú thì tay cân miệng tính,
Tiếng Quảng Đông “Hố mại tì khao”
Bên tiệm cưa cây sắp như rào,
Tiếng đẩy kéo nghe thôi sột soạt;
Máy xay lúa chạy nghe rầm rạt,
Gọng xúp-lê te tét vang tai;
Đò Cái Dầu ghé chợ ban mai
Rước hành khách đi thôi khẳm mẹp!
Lúc ban đêm xem càng thêm đẹp:
Trường hát thì chật nứt ngoài trong,
Đèn ghe giăng đậu mấy khúc sông,
Bờ nghểu nghến giai nhân tài tử.
Mặc tình khách phong lưu ngoạn thử
Giải khát dùng nước đá nước chanh,
Rượu xi-rô, cô-nhắc, sâm-banh,
Trái cây đủ, hột gà la-cót…
Cô bán vàm rao nghe thảnh thót:
Cháo vịt gà, chè đậu, bánh canh…
Lái buôn nào ngôn ngữ cho lanh,
Kêu lại nếm một lần thì biết.
Hai bên Bắc có đò hai chiếc
Đưa xe hơi qua lại hằng ngày,
Kèn xe hơi kêu gọi bên tai,
Gió phưởng phất ào ào lượn sóng.
Bước đường đời cao xa lồng lộng,
Mặc tình ai đắm nguyệt say hoa;
Mắt nhìn xem những chốn phiền ba
Miền đô hội nam thanh nữ tú…
Buôn bán lớn toàn là khách trú,
Còn An Nam xẩn bẩn hại nhau!
Gẫm tình đời ngắm trước xem sau
Đường tấn bộ không ai lướt tới!
Hễ nước thạnh thì tài tử quới
Còn gia phồn thì tiểu nhi kiêu.
Mấy ai rằng văn tự gấm thêu
Kẻ kẻ thảy lúa tiền trân trọng.
Chữ phú quý như phù vân mộng,
Cuộc hưng vong thiên địa tuần huờn,(1)
Trớ trêu thay tạo hóa đòi cơn
Lắt lẻo bấy nhân tâm nhiều chuyện:
Phú tao tật đố, bần tao tiện
Cần viết tham lam, kiệm viết kiên! (2)
Ngửa mặt trông nước thạnh đời yên
Ngóng cổ đợi dân cư lạc nghiệp

Bình-Tam-Lê sưu tầm và chú

_______________________________________________

(1) Sự giàu sang ví như giấc mộng, như mây nổi. Theo quan niệm xưa,
cuộc hưng thạnh hay suy vong là do sự xoay vần của trời đất.
(2) Giàu bị ganh ghét, nghèo bị khinh khi. Siêng năng bị chê là tham lam, tiết kiệm bị chê là bỏn xẻn.

Trên cái nền chung của văn hóa dân tộc, mỗi vùng, mỗi xứ, mỗi miền với những đặc điểm riêng về điều kiện tự nhiên, sinh thái, tộc người, xã hội lịch sử của mỗi địa phương đã hình thành cho mình một bản sắc riêng trong cuộc sống .

Vùng châu thổ đồng bằng sông Cửu Long, với diện tích 39.712 km2 (chiếm hơn 12% diện tích đất đai cả nước), dân số gần 17 triệu người (tính đến năm 2003) chiếm 22% dân số cả nước, là vùng đất phù sa mới gồm 13 tỉnh, thành phố: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Trà Vinh, Hậu Giang, An Giang, Kiên Giang, Soùc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và TP. Cần Thơ. 700km bờ biển và 400km biên giới tiếp giáp với Campuchia, hệ thống sông ngoi và kênh rạch chằng chịt (khoảng 28.000km sông ngòi) toàn vùng là cơ sở cho hệ thống giao thông đường thủy và hình thành các cảng sông, cảng biển quốc tế, đồng thời còn là nguồn tưới tiêu, thau phèn rửa mặn. Hoàn cảnh tự nhiên và thổ nhưôõng của vùng đất này sẽ giúp cho chúng ta hiểu cặn kẽ hơn tính cách, lối sống của người ồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, đây là một yếu tố luôn động, đòi hỏi phải có những nghiên cứu công phu nhằm tìm ra lời giải đáp thích hợp, khoa học. Ở đây, chúng tôi không định khảo sát toàn bộ các vấn đề liên quan đến lối sống của cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, mà chỉ xem xét và bước đầu đưa ra một số thực trạng về lối sống của cư dân và qua đó nêu một số giải pháp nhằm xây dựng lối sống văn hóa của người dân đồng bằng sông Cửu Long trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

Chúng ta từng biết, lối sống là một phạm trù cơ bản của khoa học xã hội, một vấn đề phong phú, đa dạng và phức tạp. Từ trước đến nay, về lối sống, đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những định nghĩa khác nhau, tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Theo chúng tôi, ở một khía cạnh nhất định, định nghĩa nêu sau đây là hợp lý hơn cả: “Lối sống là một phạm trù xã hội học, khái quát toàn bộ hoạt động sống của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân, trong những điều kiện của một hình thái kinh tế- xã hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong lao động và hưởng thụ; trong quan hệ giữa người với người; trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa”(1). Như vậy, lối sống là một hình thức biểu hiện của văn hóa. Phương thức sản xuất là một hình thức hoạt động sinh sống nhất định của con người, là mặt cơ bản của lối sống, thông qua đó mà con người biểu hiện đời sống của mình, biểu hiện bản thân mình. Theo chúng tôi, tìm hiểu lối sống, trước hết, phải bắt đầu từ phương thức sản xuất của con người, ở cả hai mặt: quan hệ với tự nhiên (lực lượng sản xuất) và quan hệ với xã hội (quan hệ sản xuất). Phương thức sản xuất là điều kiện kinh tế – xã hội của lối sống. Phương thức sản xuất như thế nào thì phương thức sống như thế ấy.

1. Thực trạng lối sống cư dân đồng bằng sông Cửu Long

Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất hội cư của nhiều tộc người, trong đó chủ yếu là người Việt (90%), người Khơme (6%), người Hoa (2%), còn lại là người Chăm. Họ cùng chung sống và phát triển các loại hình hoạt động kinh tế. Trong quá trình sinh sống, làm ăn, hành trang mang theo của cư dân là những vốn truyền thống từ làng quê, đất tổ đã thẩm thấu lẫn nhau tạo nên một nét mới để thích nghi, phù hợp với vùng sinh thái tự nhiên và xã hội. Người dân tới vùng đất phương Nam phải gạt bỏ dần những tập tục phong kiến để tiếp thu, thẩm thấu những nét, những sắc thái văn hóa hết sức đa dạng, phong phú và riêng có của văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long trong nền văn hóa người Việt.

Đồng bằng sông Cửu Long có kênh rạch chằng chịt, có khí hậu nhiệt đới gíó mùa, thời tiết khí hậu hiền hòa, ít bão tố, một năm có hai mùa mưa, nắng rõ rệt. Khi những cư dân người Việt đầu tiên đặt chân đến cùng đất này, thì nơi đây còn là những cánh rừng hoang bạt ngàn, với đủ loại thú dữ, bệnh tật và nhiều nguy hiểm, đòi hỏi con người phải có lòng dũng cảm, năng động, sáng tạo, cần cù, chịu khó, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau mới có thể chế ngự và làm chủ được tự nhiên hoang sơ và khắc nghiệt. Chính điều này đã tạo nên cho con người cuộc sống hòa mình với thiên nhiên (có lối sống phóng khoáng tự do). Nơi đây cũng là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi, với những thủy hải sản phong phú, phù sa tạo nên những miệt vườn với những trái cây trĩu cành, vùng lúa phì nhiêu ban tặng sự trù phú cho cuộc sống của những cư dân đến từ muôn nơi. Vùng đất mầu mỡ này đã bao dung cho cuộc sống của con người. Con người cũng giang tay đón nhận sự ban phát sự hào phóng thiên nhiên. Chính đất đai, xứ sở đã tạo ra tính cách con người vùng sông nước này: hào phóng. Hào phóng vì thiên nhiên đã ưu đãi cho con người. Họ không phải khó khăn, vất vả cho sự mưu sinh nên mọi thứ cứ mộc mạc, giản dị như cái vốn có của tự nhiên, định hình lối sống phóng khoáng, tự do, hào hiệp, không lo xa, không cần tiết kiệm, không tích cốc, phòng cơ, đôi khi có phần dễ dãi như một tính cách đặc trưng của họ, nhưng đồng thời lại tạo nên lối sống mất căn cơ, không lo xa, thậm chí trở thành thiếu tính kế hoạch trong công việc làm ăn. Đây cũng là tính cách khá đặc biệt của người dân vùng sông nước Cửu Long, được hình thành từ đặc điểm sinh thái của vùng đất này, góp phần cho sự định hướng cũng như phương pháp tư duy, xúc cảm, thẩm mỹ của họ.

Các cư dân người Việt, người Khơ me, người Hoa, người Chăm,… đều không phải là người dân bản địa. Những gì ban đầu họ mang theo đến vùng đất này để “mở cõi” là những vốn sống, hành trang văn hóa vật chất và tinh thần trong huyết quản, tiềm thức và để thích ứng với điều kiện tự nhiên của vùng đất mới, cho nên họ đã bao dung lẫn nhau, cùng hòa đồng, thân thiện, làm ăn, sinh sống. Chính vì vậy một tổng thể của các sắc thái văn hóa và tôn giáo cùng tồn tại, cùng chung sống, cùng phát triển trong sự tôn trọng lẫn nhau đã làm nên nét văn hóa đặt trưng của vùng đồng bằng sông Cửu Long, đó là đa tôn giáo, đa dân tộc.

Đó mới là một vài biểu hiện trong quan hệ với tự nhiên, còn trong quan hệ xã hội, người dân chú ý nhiền đến hành vi và việc làm, gần như ít quan tâm lám đến chức tước, địa vị và cũng không có thái độ phân biệt giàu nghèo, sang hèn, nguồn gốc xuất thân. “Tuổi tác và phẩm hạnh là điều mà người Nam Bộ quan tâm và phân biệt đối xử. Hẳn vì thế, mà người ta quen gọi nhau bằng thứ, anh Hai, chị Ba, rất ít khi thêm chức vị trước tên người”(2). Họ đề cao và coi trọng tính chân thật và tính cởi mở, không ưa vòng vo, dông dài, trau chuốt trong giao tiếp. Những cư dân vùng sông nước này từ nhiều nơi hội tụ về đây, họ không chỉ có khai hoang lập nghiệp, lập làng xóm, phum sóc, cày bừa, gieo trồng, gặt hái, chăn nuôi,…. để có cái ăn, cái mặc, cái ở mà còn có những nhu cầu văn hóa tinh thần, tạo niềm tin tăng thêm sức mạnh và ý chí để giúp họ vượt qua những khó khăn thử thách, hiểm nguy mà họ thường gặp trong quá trình lao động và trong cuộc sống hằng ngày .

Đại bộ phận nông dân đồng bằng sông Cửu Long vốn kế thừa truyền thống một nước có nền văn minh nông nghiệp lúa nước từ rất sớm, với nền tảng kinh tế thuần nông, lạc hậu, phân tán, manh mún đã chi phối nếp nghĩ, nếp sinh hoạt của người dân và tạo nên bản sắc riêng của vùng này. Người dân phần đông chỉ có ý thức về thời vụ, về “mùa” chứ chưa có ý thức rõ rệt về thời gian. Điều này đã tạo nên lối sống lề mề, chậm chạp, không biết tận dụng, không biết quý trọng thời gian. Chẳng hạn trong tiệc tùng, nhậu nhẹt thì “nhậu lai rai”, “nhậu một ngày một đêm thêm bữa nữa”… phải chăng vì vậy đã làm chậm sự năng động, sự phát triển của xã hội ? Mặc dù tiềm năng thế mạnh của cả vùng là rất lớn, song hiện nay đồng bằng sông Cửu Long đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức: đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân còn nhiều khó khăn: trình độ dân trí thấp, kết cấu hạ tầng còn yếu kém,… Nhân lực đóng vài trò quyết định trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng tỉ lệ lao động qua đào tạo mới đạt được 10% (bình quân cả nước là 20%) trong khi đó đầu tư giáo dục và đào tạo cho đồng bằng sông Cửu Long mới chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu. Hiệu quả giáo dục các cấp đều thấp: tiểu học 56,68% (cả nước 77,57%), trung học cơ sở là 51% (cả nước 70%), trung học phổ thông là 61,17% (cả nước 78%). Tỉ lệ học sinh học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học mới đạt 31 người /1 vạn dân (thấp nhất cả nước)(3).

Ở đồng bằng sông Cửu Long không trải qua cuộc cải cách ruộng đất, phần nhiều người dân có ruộng, có vườn, nên cuộc sống cũng không vất vả, cực nhọc như những cư dân miền Bắc, miền Trung. Có lẽ vì vậy người dân thường có những suy nghĩ giản đơn, ít có sự nhìn xa, trông rộng để có sự đầu tư cho con cái trong tương lai về vấn đề học hành, sự nghiệp, tiến thân. Tâm lý và tính cách tiểu nông trong lối sống của cư dân nơi đây vẫn còn tồn tại khá phổ biến, ý chí làm giàu chưa trở thành mẫu số chung trong nhân sinh quan của người dân, thái độ sống thụ động, lệ thuộc, không cầu tiến vẫn tồn tại khá rõ nét. Những yếu kém và bất cập không chỉ thể hiện sức ì, bảo thủ, tính cục bộ và phân tán của con người trong nhận thức và hành động mà còn chứng tỏ một sự thật là nền kinh tế của vùng sông nước này vẫn còn là nền kinh tế tiểu nông, nghèo nàn, lạc hậu và bộc lộ rõ nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế và tri thức trong quá trình phát triển ở đồng bằng sông Cửu Long . Đây là những trở ngại lớn đối với nhu cầu phát triển bền vững cũng như xây dựng lối sống văn hóa mới cho đồng bằng sông Cửu Long. Khi cả nước đi vào kinh tế thị trường, nguồn nhân lực yêu cầu cần được đào tạo, có chuyên môn, có trình độ cao thì ở đồng bằng sông Cửu Long tỉ lệ người không có việc làm còn cao, số người nghèo còn đông (9,25%) nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.

Từ những vấn đề khái quát về thực trạng trên, theo chúng tôi, để xây dựng và phát triển bền vững văn hóa, kinh tế, xã hội, trong đó có việc xây dựng lối sống văn hóa mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho nhân dân đồng bằng sông Cửu Long, cần tập trung vào các giải pháp cơ bản và có tính khả thi.

2. Một số giải pháp

Phải khắc phục được những thực trạng trong hiện tại, từng bước củng cố, xây dựng chiến lượt phát triển con người trên cơ sở xây dựng lối sống văn hóa mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phải coi trọng việc xây dựng lối sống văn hóa cho người dân, coi đây là công việc và trách nhiệm của toàn xã hội, các cấp, các ngành, các cơ quan đơn vị, các gia đình đều phải có ý thức xây dựng lối sống văn hóa mới.

Vừa xây dựng phát triển kinh tế, vừa xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Việc xây dựng lối sống văn hóa là công việc thường xuyên, liên tục, lâu dài, nhằm duy trì cái tốt, cái tiến bộ, loại bỏ dần cái xấu, cái tiêu cực.

Từng bước xóa bỏ kinh tế tiểu nông, với một chính sách nông nghiệp có tầm nhìn dài hạn. Sớm nhận rõ được giới hạn của nguồn tài nguyên đất đai, lẫn nguồn lao động của người tiểu nông. Cần một chu trình chuyển tiếp sang một nền kinh tế nông nghiệp hàng hóa, gắn với thương nghiệp, công nghiệp chế biến và với công nghiệp hóa; biến nông nghiệp độc canh thành đa canh, từ đó giảm dần sức ì vốn có trong tư chất, tính cách của người tiểu nông vùng đồng bằng sông Cửu Long, khắc phục tính vụ mùa trong việc sử dụng nguồn lao động, tư liệu sản xuất, tiền vốn.

Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp mạnh hơn nữa, trước hết là cơ cấu cây trồng, vật nuôi, giảm bớt diện tích đất lúa kém hiệu quả để có thêm đất phát triển các cây, các con khác có giá trị kinh tế cao, gắn thị trường, dịch vụ với nông sản nhà nông tạo ra. Cần có chính sách mở cho từng vùng, tỉnh, tạo lợi thế cạnh tranh. Mô hình bốn nhà (nhà doanh nghiệp, nhà nông, nhà khoa học, nhà băng) sớm đi vào cuộc sống một cách cụ thể và hiệu quả hơn.

Xây dưng môi trường văn hóa lành mạnh nhằm nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân, làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống và hoạt động xã hội.

Tổ chức các hoạt động sinh hoạt vui chơi giải trí lành mạnh, khôi phục các lễ hội dân gian.

Kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa của các dân tộc trong vùng, sự đa dạng, phong phú của văn hóa tộc người. Phát triển văn hóa vùng gắn liền với giao lưu văn hóa quốc gia, quốc tế, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của các vùng trong nước và văn hóa nhân loại để làm đẹp thêm cho văn hóa vùng, đồng thời đề cao bản lĩnh văn hóa vùng, đấu tranh chống những ảnh hưởng và những thâm nhập của những văn hóa độc hại, tăng cường phát huy những di sản văn hóa của đồng bằng sông Cửu Long, góp phần vào kho tàng văn hóa chung của dân tộc và trên thế giới.

Tăng cường vai trò của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân đối với việc xây dựng lối sống lành mạnh cho người dân…

Trên đây là một số nét thực trạng và giải pháp cơ bản nhằm xây dựng lối sống văn hóa cho cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để đạt kết quả cao, một mặt các giải pháp cần được tiến hành đồng bộ, thường xuyên, lâu dài; mặt khác, phải có sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo và tổ chức thực hiện của các cấp lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Thiết nghĩ, làm được như vậy lối sống văn hóa của cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ ngày càng phát triển, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay.

____________________________

1. Trần Văn Bính (chủ biên), Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng, Nxb Chính trịquốc gia, Hà Nội, 2000, tr.190.

2. Phan An, Nguyễn Thị Nhung, Người Nam Bộ trước và trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa, trong sách: Những thành tựu khoa học xã hội và nhân văn ở các tỉnh phía Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, 2003, tr.936.

3. Hội thảo khoa học: Vì sự phát triển của vùng đồng bằng sông Cửu Long quyển 3, TP. Cần Thơ, 11-2004.

Bài của Lương-Thanh-Tân

Đăng bởi: Nguyễn Hoàng Triệu | 08/25/2011

Nghề ăn Ong trong rừng U-Minh

Đi ăn Ong ở U-Minh

Trong xã hội nghề rừng ở U Minh, có một nghề độc đáo mà nhiều chuyên gia lâm nghiệp quốc tế khi đến đây đều nói rằng, họ chưa từng gặp ở đâu trên thế giới. Đó là nghề gác kèo ong. Đặc biệt, những người làm nghề này đều bắt buộc phải gia nhập vào một tổ chức xã hội có lịch sử truyền đời, do chính họ lập ra, đó là Đoàn Phong Ngạn

Dựng nhà cho ong…

Mỗi đoàn viên Phong Ngạn chỉ cần những dụng cụ đơn sơ: một cái búa bén, một cái gùi, một cái hộp quẹt, dúm bùi nhùi bằng xơ dừa hay vỏ tràm khô và con dao tre. Dúm bùi nhùi để hun khói xua ong khi lấy mật. Để an toàn trong việc phòng cháy rừng, về sau bùi nhùi được đốt trong hộp thiếc, nắp hộp có cái vòi cho khói thoát ra. Cũng không thể dùng dao sắt, vì sau khi lấy mật, con ong có khuynh hướng sẽ bỏ tổ. Còn lại là những kinh nghiệm truyền đời. Người thợ rừng chặt một đoạn tràm thẳng, to cở bắp chân người lớn, dài chừng hai mét, chẻ đôi thân cây, đụt lỗ ở hai đầu để mắc vào cọc chống, phơi khô đoạn cây trước khi mang vào rừng. Thế rồi người thợ lựa hướng gió, hướng mặt trời, địa thế của cây rừng để gác đoạn gỗ ấy chênh chếch  vào tầm đầu người ở một nơi bất kỳ nào đó trong cánh rừng mênh mong. Đó là công việc gát kèo. Thế là đàn ong lại về đúng đoạn cây đó để làm tổ và cho mật. Những lô rừng có người gác kèo thì không bao giờ ta gặp được ổ ong đóng trên những cành cây tự nhiên, dù có vô số những cây rừng tự nhiên cũng nằm chênh chếch như vậy. Tuy nhiên, không phải kèo nào rồi cũng có ong. Người nào có số kèo được ong về làm tổ trên 90% sẽ được liệt vào hàng lão làng, thường được tôn vào nhóm đại diện, cho dù lúc ấy tuổi đờI của họ còn trẻ hơn nhiều người khác. Nhưng người yếu tay nghề nhất cũng phải đạt trên bảy phần mười số kèo được ong làm tổ mới có “cơ” làm đoàn viên Phong Ngạn.

… và dựng tổ cho người

Tôi đã hỏi nhiều lão ông nhà có mấy đời sống bằng nghề gát kèo, rằng vì sao tổ chức của họ lại có cái tên là Đoàn Phong Ngạn và nó đã được hình thành như thế nào? Chẳng một ai rõ nguồn cơn ra sao. Cả cái việc vì sao các thành viên của Đoàn Phong Ngạn đều phải là nam giới, thì cũng không ai giải thích được. Chỉ biết, trong mỗi gia đình, khi người cha mất đi hay không còn đi rừng nổi thì những đầu kèo của người đó trong rừng nghiểm nhiên thuộc về người con trai nào đó được ông rèn cập nghề này từ khi nhỏ. Tuyệt nhiên không có sự tranh chấp từ những người con trai khác. Nếu gia đình không có con trai, các kèo ấy thuộc về một đứa cháu trai, dù là một đứa cháu họ xa cũng được. Bằng không, nghề này trong gia đình ấy xem như thất truyền. Khi đó, những đầu kèo của họ trong rừng sẽ thuộc về Đoàn Phong Ngạn và Đoàn có toàn quyền chia cho các thành viên khác.

Đoàn Phong Ngạn được tổ chức khá chặc chẻ. Người đứng đầu gọi là đại diện, không do bầu ra, nhưng được các thành viên tôn lên một cách tự nguyện, dựa trên các tiêu chuẩn được ngầm ước định là: kinh nghiệm, tuổi cao và đức độ. Đức độ ở đây được xét với hai khía cạnh, là cư xử với người và ứng xử với rừng.

Ba điều luật

Đoàn Phong Ngạn ban đầu hình thành theo dòng họ, nhưng sau được tổ chức theo cụm dân cư. Mỗi Đoàn Phong Ngạn “làm chủ” một vùng rừng, ranh giới phân chia rõ ràng. Trong vùng rừng ấy, mỗi đoàn viên được phân chia từng lô cụ thể. Có ba điều qui ước nghiêm ngặt cho mọi thành viên trong Đoàn Phong Ngạn. Thứ nhất là về việc vào rừng: mọi thành viên trong Đoàn khi vào rừng, bất kỳ lý do gì, đều phải báo cho ít nhất một người trong Đòan được biết. Qua đây, người ta kiểm soát chặc chẻ hoạt động của con người trong rừng. Thứ hai, mỗi đoàn viên phải chịu trách nhiệm canh giữ không để lửa cháy trong khu vực lô của mình, dù bất kỳ nguyên nhân do đâu. Thứ ba, cấm ngặt chuyện trộm mật từ kèo ong của người khác. Không giữ được ba điều này, nhất là điều thứ ba, người đoàn viên sẽ bị cấm nghề, phải để lại số đầu kèo trong rừng cho một người thân và người mới này phải được cả Đoàn chấp nhận. Nếu không có một người “kế nghiệp”, số kèo của người này sẽ được chia đều cho các thành viên trong đoàn.

Những chủ rừng không có văn tự

Điều lý thú là các khu rừng do Đoàn Phong Ngạn “làm chủ” đều có chủ. Thời Tây, đó là các nhà thầu và các chủ đường củi. Chính quyền thực dân ngày xưa hàng năm mở cúp bán rừng cho các nhà thầu khai thác theo chu kỳ của tuổi cây, thường là 20 năm tuổi trở lên. Người trúng thầu phân lô bán lại cho các chủ đường củi và họ được xem là chủ hợp pháp của rừng. Đã có nhiều chủ đường củi mưu toan đánh thuế hay ăn chia với dân Phong Ngạn nhưng đều thất bại. Dân Phong Ngạn có thứ vũ khí lợi hại, đó là đồng loạt rút kèo. Có nghĩa là họ không vào rừng gát kèo và phá bỏ những chiếc kèo sẵn có. Các chủ đường củi chỉ còn cách liên kết với nhau để chèn ép giá mua mật và sáp ong. Dân Phong Ngạn cũng không vừa, họ mua lu (vại lớn) về trử mật lại, có người trử tới mấy chục lu mật trong nhà.

Thời kinh tế bao cấp, toàn bộ rừng đều được phân chia cho các lâm trường. Các lâm trường không chấp nhận việc người Phong Ngạn tự do vào rừng nên đã có lúc chủ trương biến họ thành nhân viên hợp đồng ăn chia sản phẩm. Nhưng chủ trương này cũng không thành, do dân Phong Ngạn lập lại cái điệp khúc rút kèo. Cuối cùng các lâm trường phải thoả hiệp cho họ được vào rừng như cũ. Bởi cái lợi của việc cho họ vào rừng ngoài thu mua được mật, họ còn là đội quân phòng chống cháy rừng hiệu quả hơn cả.

Trong một lần tìm hiểu tài liệu về lâm trường Sông Trẹm, tình cờ tôi nhìn thấy con số thật đáng suy nghĩ: năm 1982, bộ phận thu mua của lâm trường đã mua được số lượng mật ong lên đến 400 tấn. Khối tinh hoa này được chắt chiu từ bao nhiều cánh ong và bao nhiêu cánh hoa rừng? Trong đó cũng không thể không kể đến tình yêu thiên nhiên của những người dân Phong Ngạn.

Bây giờ rừng đã cạn kiệt đi nhiều, nên nhiều Đoàn Phong Ngạn cũng teo tóp hay tự biến mất. Song, tôi vẫn còn quen  một kỹ sư lâm sinh, dân gốc U Minh, dù đang là cán bộ Nhà nước có cở ở tỉnh, nhưng anh vẫn còn là thành viên của một Đoàn Phong Ngạn. Anh kỷ sư này vẫn có định kỳ để đi vào rừng với những kèo ong của mình.

Mới hay, những gì thuộc về truyền thống, thuộc về văn hóa thật khó mất đi. Nhưng cũng nên hiểu rằng, không phải tự nhiên mà chúng còn mãi.

Chút kỹ niệm

Đầu tháng 10/ 2005 vừa qua, nhân chuyến về Cà Mau, tôi có tranh thủ về xã Biển Bạch Tây, nằm bên bờ sông Trẹm thuộc huyện Thới Bình để thăm anh Năm Dễ, một người tôi quen cách nay đã 22 năm.

Bài của Nguyễn-Trong-Tín ( songcuulong )

Đăng bởi: Nguyễn Hoàng Triệu | 08/24/2011

Tìm hiểu về văn hóa Miền-Tây ( phần 2 )

Phần 2 – Phong tục và tập quán

Tục thờ cúng Ông Bà Tổ Tiên và ngày giỗ

Thờ ông bà là một bổn phận và nhiệm vụ trọng đặc thù của người miền Nam. Trong quảng đại quần chúng xưa và nay, người ta thường nói “đạo thờ ông bà” là tín ngưỡng sâu sắc, nhưng không là một tôn giáo, “đạo” nói ở đây phải hiểu là đường lối do lòng thành kính và biết ơn của con cháu đối với cha mẹ, ông bà đã khuất. [5]

Khi tôi hoàn tất bài viết này thì hoàn cảnh xã hội ở Việt Nam đã phức tạp hơn trước những năm 1975 rất nhiều. Việc thờ cúng tổ tiên cũng đã phát triển rộng và đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của người dân miền Tây. Các nghi thức này không những nhằm chuyển những thông điệp mà còn để tỏ lòng biết ơn của chúng ta đối với những người đã khuất.

Dân miền Tây tin rằng Ông bà có thể phù hộ con cháu họ là một trong những lý do khiến mọi người coi trọng việc thờ cúng tổ tiên và việc làm giỗ. Ngoài ra, vẫn còn có một lý do khác buộc chúng ta phải quan tâm đối với những người đã mất, đó là quan niệm thuộc nền tảng đạo đức và đạo lý làm người. Đạo làm con phải “uống nước nhớ nguồn”. Không ai tự nhiên được sinh ra, không ai tự nhiên lớn lên, tất cả đều phải chịu ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ và những người đi trước, “có tổ tiên mới có mình”. Sự biết ơn và tưởng nhớ công lao của tổ tiên chính là để thể hiện “đạo lý làm người”, một đạo lý tốt đẹp của người Việt Nam nói chung và người miền Tây nói riêng.

Cách thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với tổ tiên liên quan hệ chặt chẽ với hoàn cảnh kinh tế xã hội. Ví dụ, ngôi mộ mà gia đình tôi đã xây dựng cho cha tôi chứng tỏ gia đình có hoàn cảnh kinh tế hơi khấm khá, và mẹ tôi rất tự hào vì “mọi người cho rằng nó là ngôi mộ to và đẹp nhất Phụng Hiệp”. Chính điều này nhiều khi cũng gây ra không ít những sự  ganh đua trong dòng họ. Vì thế, trong nghĩa trang ngày nay càng mọc lên nhiều ngôi mộ rất lớn và đẹp. Tuy nhiên, giá trị thực sự của một ngôi mộ chính là ở sự thành tâm của đạo làm con. Vẻ đẹp của ngôi mộ không chỉ chứng tỏ sự thành công về mặt tài chính mà còn thể hiện sự tận tụy và nhân tính của một gia đình có nền tảng đạo đức tốt đẹp. Cùng với việc thờ cúng, sự quan tâm đến mồ mả cha ông chúng tôi càng làm nổi bật lên nhân cách tốt đẹp của gia đình.

Theo tục lệ người miền Tây, ngày giỗ là “chung thân chi tang” có nghĩa là ngày tang trong suốt cả đời người. Mỗi năm vào đúng vào ngày người đã mất là một lần giỗ, cho nên người miền Tây thường quan trọng ngày cúng giỗ ông bà cha mẹ. Và cũng theo tục lệ này, bữa cúng phải có chén cơm xới đầy cùng những thức ăn thông thường mà khi người còn sống vẫn thích. Vì thế người miền Tây mới gọi tên cúng giỗ là “cúng cơm”. Những khách khứa cùng bà con thân thích, hợp mặt lại gợi lại những gì tốt đẹp của người qua đời, trước khi ngồi vào bàn ăn giỗ phải làm lễ dâng cúng với những lễ vật mình đem tới và chắp lạy trước bàn thờ . Trên bàn thờ đèn nhang đã được thắp từ trước, khi các thức ăn được bày lên. Gia trưởng trang phục chỉnh tề, xem xét kỹ các lễ vật có đầy đủ rồi mới bước vào chiếc chiếu được trải trước bàn thờ, quỳ xuống, hai tay chắp lại vòng ngang trán và vá bốn lạy. Một trong hai người chấp tay lạy thường là em hay con cháu gia trưởng, đứng hai bên bàn thờ, thấp ba nén hương, đưa cho gia trưởng váy một váy lui rồi trao lại đem cắm lên bát hương. Người chấp lạy thứ hai mở nút bình rượu, rót rượu và nước lên ba chén để trên đài, xong đâu vào đó rồi gia trưởng làm lễ khấn.

Nhìn chung người miền Tây thực sự tự hào về việc thờ cúng tổ tiên, hay nói khác hơn là việc này tạo cho họ cơ hội giao tiếp, phát triển mối quan hệ họ hàng, chia sẻ vui buồn và hợp tác với nhau vì lợi ích của cả cộng đồng.

Tôi nhớ buổi tối “đám tang” của Cha tôi, ngày họ hàng nội ngoại hợp lại, bên nội tôi đa số từ Phong Dinh về và dòng họ ngoại tôi đa phần ở Sóc Trăng và Bạc Liêu, một bữa ăn chung ấm cúng, đã tạo cho họ ngoại nội có điều kiện nói chuyện, trao đổi ý kiến để tạo thêm tình thân thiết họ hàng.

Có thể nói, tổ tiên ông bà và những người đã qua đời đóng một vai trò hết sức ý nghĩa trong đời sống người dân miền Tây nói riêng hay Việt Nam nói chung như hiện nay.

Tết Thanh Minh hay Lễ Tảo Mộ

Thanh Minh trong tiết tháng Ba
Lễ là Tảo Mộ, hội là Đạp Thanh

Thăm viếng phần mộ tổ tiên cũng là nét đặc trưng của văn hóa miền Tây, một tục lệ trong “đạo thờ ông bà” của dân tộc ta vốn từ lâu đã trở thành truyền thống. Dù điều kiện khó khăn thế nào đi chăng nữa trong cuộc mưu sinh, dù cả năm bôn ba làm ăn ở nơi xa, nhưng chốn quay về vẫn là gia đình. Nhiều gia đình cho rằng mỗi dịp tảo mộ cũng là một dịp giãi bày với ông bà, tổ tiên những chuyện đã xảy đến trong năm với cả gia đình, dòng họ. [6]

Ngày Tết Thanh Minh được tính theo ngày Dương lịch hàng năm vào ngày 5 tháng 4 (nếu vào năm nhuần thì sẽ là ngày 4 tháng 4). Thanh Minh nghĩa là thời tiết trở nên mát mẻ quang đãng, trong lành. Người ta đi thăm viếng, vun lại những nấm mồ, phát cỏ dại, chặt cây cối quanh mộ, sửa sang, tu bổ mộ phần những người quá cố trong gia đình, và cả những phần mộ của các vị tổ tiên nhiều đời trước đó. Đôi khi họ cũng thắp nhang cho những mộ phần vô chủ. Đồ cúng tế thường là một lễ mặn nhỏ gồm: nhang, đèn, trầu cau, tiền vàng tiền bạc, rượu, thịt (chân giò, gà luột hay khoanh giò) và hoa, quả. Dân miền Tây tin rằng ngôi mộ là ngôi nhà của người đã mất, vì vậy sơn phết và chùi dọn mộ bên ngoài là dọn nhà cho người thân đã mất của mình có chỗ ở an khang và tốt đẹp.

Tết Nguyên Đán

Đối với người Tây phương, Noel là ngày lễ quan trọng nhất trong năm. Nhưng đối với dân Việt, tết Nguyên Đán là ngày trọng đại nhất. [6]

Tết đối với người miền Tây được ví như  sự tổng hợp của Giáng Sinh, New Year và St-Valentine của người phương Tây. Cái Tết bắt đầu cho năm mới, hy vọng về mọi sự may mắn tốt lành của mùa xuân nảy lộc đâm chồi, đồng thời cũng bỏ lại tất cả những rủi ro, đen đủi của năm cũ. Người miền Tây có tục hằng năm mỗi khi Tết đến lại trở về xum họp dưới mái ấm gia đình và để hàn huyên tâm sự sau một hay nhiều năm xa cách. Tuy là Tết cổ truyền của dân tộc nhưng tuỳ theo mỗi vùng, mỗi miền của Việt Namhoặc theo những quan niệm về tôn giáo khác nhau nên có thể có nhiều hình thức, nhiều phong tục tập quán địa phương khác nhau. Nhưng đều có chung một điểm là có thể phân làm 3 khoảng thời gian, mỗi khoảng thời gian ứng với những sự chuẩn bị, ứng với những lễ nghi hay ứng với những hình thức thể hiện khác nhau, đó là: Tất Niên, Giao Thừa và Tân Niên.

Tết là dịp cho dân ta tạ ơn trời đất đã ban phúc cho mỗi gia đình làm ăn khắm khá hơn so với năm vừa qua. Nhiều người muốn được khấn váy trước bàn thờ, thăm lại ngôi mộ hay nhà thờ tổ tiên. Cũng có người muốn thăm lại nơi chôn nhau cắt rốn, thời niên thiếu với gia đình. Đối với những người xuất thân từ nông thôn miền Tây, kỷ niệm thời niên thiếu có thể gắn liền với sông nước, sân vườn.

“Về quê ăn Tết” đã trở thành một thành ngữ quen thuộc gợi lên cuộc hành hương về nơi cội nguồn. Dầu đi đâu về đâu, ngày nay mỗi lần Tết đến tôi lại mang mang nhớ nhung cái “hồn” của chợ quê xưa. Tấm “hồn” đó là do sự lắng đọng của quang cảnh chợ Tết của tỉnh tôi, dọc hai bên bờ sông có hàng hoa đủ loại đua sắc, nào là mai vàng vạn thọ, hướng dương, thủy tiên v v…

Hồ nước ngọt Sóc Trăng có đủ loại các trò chơi cho trẻ em và đủ gian hàng vui chơi giải trí, vẫn sống mãi trong tâm thức. Nhớ lại thuở bé, chúng tôi Io lắng chờ dịp tết sớm đến để có cơ hội diện bộ đồ mới để đi thăm và khoe với họ hàng ông bà ở Phong Dinh và khi về mang đầy ấp mấy bao tiền lì xì…

Tết cũng là dịp cho mọi người cám ơn nhau trong suốt một năm trời sinh hoạt chia sẻ những vui buồn với nhau. Anh em đến chơi với nhau hay đoàn tụ người phương xa, uống chén rượu, hoặc chén nước trà tàu, trà sen hoà với vài ba hạt dưa, ăn vài miếng mứt, nếu xom tụ hơn thì thịt kho hột vịt dưa hấu, tôm khô cũ kiệu nhâm nhi ngày tết.

Bạn bè thăm hỏi lẫn nhau, mỗi người đưa một danh thiếp đỏ đề mấy chữ chúc tặng nhân dịp năm mới. Tuy nhiên Tết cũng trở thành một nỗi lo âu và là gánh nặng cho lớp người với điều kiện kinh tế chật hẹp.

Tết Nguyên Đán là lễ tết đầu tiên của một năm. Tết được bắt đầu từ lúc giao thừa. Theo chữ Hán, Nguyên có nghĩa là bắt đầu, Đán là buổi sớm maị Tết Nguyên Đán tức là tết bắt đầu đầu năm, mở đầu cho mọi công ăn việc làm với tất cả mọi cảnh vật đều mới mẻ đón xuân sang. Năm hết Tết đến, những sự may mắn mới đến, và bao nhiêu điều lo âu phiền toái của năm cũ đều theo năm cũ mà đi hết.

Tết Nguyên Đán đến là ngày xuân ấm áp cũng đến, mang lại hoa cỏ xanh tươi khiến cho mỗi người chúng ta thấy nao nao tâm hồn như những trẻ thơ, mặc dù sau một năm dài làm lụng vất vả có biết bao lo toan trong cụôc sống.

Người miền Tây thích trưng bày hoa Mai, vạn thọ hay các loại hoa nẩy lộc mỗi dịp Tết đến. Khác với miền Bắc, khí hậu có phần nào lạnh hơn, thích hợp cho hoa Đào khoe sắc. Cứ mỗi dịp Xuân về bất cứ người miền Tây nào, nhắc đến cây Mai là nhắc đến ngày tết cổ truyền dân tộc, nhắc đến bành tét bánh chưng, cây nêu tràng pháo, bánh mứt tràn trề.

Tôi vẫn nhớ gia đình thường sửa soạn cho ngày tết bắt đầu từ tháng chạp (tháng 12 âm lịch). Nhà nhà đều lo mua gạo nếp, mua đậu xanh để gần đến ngày gói bánh tét. Bên cạnh đó, mẹ tôi đi chợ sắm sửa những vật dùng cho ngày Tết. Mẹ tôi mua sẵn gà, bánh mứt, trái cây, hương để cúng và biếu họ hàng gần xa.Trước tuần lễ tết chúng tôi thường lau chân đèn hay bộ lư toàn bằng đồng óng ánh. Chúng tôi phải lau cho chúng bóng loáng như sự sáng sũa cho cả năm mới đến. Trước đây mẹ tôi còn mua pháo tết nhưng ngày nay lặng tiếng pháo cũng bớt đi phần nhộn nhịp vào những ngày tết. Chúng tôi những học trò tha hương cầu thực thế nhưng nhân dịp tết cũng cố gắng chuẩn bị món quà nhỏ biếu thầy cô. Bước vào bất cứ nhà miền Tây nào trong thời điểm cuối năm cũng có thể nhận thấy ngay không khí chuẩn bị Tết nhộn nhịp, từ việc mua sắm, may mặc đến việc trang trí nhà cửa, chuẩn bị bánh trái, cỗ bàn, đón tiếp người thân ở xa về…

Không những lo sửa soạn các vật dụng vào dịp tết mà người dân miền Tây còn lo sắm một bộ quần áo Tết. Đặc biệt là các cô gái mới độ xuân thì, ngày xuân là dịp các cô chưng diện để cho mọi người ngắm nhìn đặc biệt là các cậu con trai mới vừa đôi mươi, đang tìm hồng nhan tri kỷ.

Tết Nguyên Đán được bắt đầu từ mùng một đến hết mùng bảy (lúc hạ nêu). Và cũng trong bảy ngày tết mọi gia đình đều chưng bày những câu đối dán trên tường, và cũng dán trên trái cây để cúng váy Ông bà tổ tiên bằng những mảnh giấy màu đỏ. Theo tục lệ Trung Quốc màu đỏ tượng trưng quyền lực vô hình có thể xua đuổi tà ma để con cháu năm mới làm ăn khấm khá và phát tài hơn. Chưng bày mâm ngũ quả trên bàn thờ của gia đình trong những ngày Tết mang ý nghĩa giữ gìn bản sắc văn hóa độc đáo của dân miền Tây. Chính vì vậy, người miền Tây dù ở phương trời nào, đến ngày Tết cổ truyền vẫn không bỏ qua tục lệ này, như một sự nhắc nhở, cho bản thân và cho con cháu, về cội nguồn của mình…

Xông nhà ngày Tết là một việc hết sức trọng đại vì thế hầu như nhà nào cũng kiêng kị rất cẩn thận. Bởi nếu không những điều xấu sẽ vận vào bản thân mà còn ảnh hưởng đến gia đình mình. Vì sợ “dông” nên phải chọn người xông nhà không xung tuổi với chủ nhà. [11]

Người miền Tây còn có thói quen chọn người có tên đẹp như Phúc, Lộc, Thọ, Tài, Lợi…mời đến xông nhà để cả năm sẽ thuận lợi, may mắn. Người xông nhà đầu năm phải là người có tài lộc, hiền hậu và có đức hạnh tốt. Người ta thường chọn những người gia cảnh song toàn, con cháu đông đàn dài lũ, làm ăn thịnh vượng, vì thế mới có lệ “hẹn trước”, mời đến xông nhà. Nếu buổi sáng mồng một mà vẫn chưa có ai đến xông nhà thì gia đình sẽ cử một người trong gia đình đi xông đất nhà người quen hay người thân trước và như vậy khi trở về nhà mình, người ấy sẽ là người xông đất của chính gia đình họ. Người miền Tây tin rằng chuyện xông nhà rất quan trọng vì nó ảnh hưởng cho công việc làm ăn và tài lộc cho gia đình cho cả một năm mới. Họ kiêng kị mọi chuyện có ảnh hưởng không tốt đến gia đình trong năm mới như việc quét nhà, lau dọn nhà cửa, họ để vậy trong ba ngày tết không được quét rác ra khỏi cửa nhà, nếu như vậy là mang đi cả sự may mắn trong năm .….

Tết Trung Thu

Ở phương Tây trẻ con hoá trang đủ kiểu háo hức dự lễ Halloween cùng bố mẹ tháp tùng, đi từng nhà xin bánh kẹo trong khi đó con nít miền Tây náo nhiệt chuẩn bị dự đại lễ Trung Thu.

Mỗi năm đến rằm tháng tám âm lịch là Tết Trung Thu. Tết này dân ta thường coi là tết của trẻ con, nhưng ngày trước có nhiều nhà cũng chi phí vào các lễ này cũng nhiều.

Đồ chơi của trẻ con trong Tết này là những chiếc lồng đèn làm bằng giấy với những hình ảnh tượng trưng cho các con thú như: voi, ngựa, kỳ lân, sư tử, rồng hươu, tôm cá, bươm bướm, bọ ngựa…hay những hình ảnh đèn cù, đèn xẻ rãnh, đình chùa, ông nghè đất… [6]

Trẻ con tối hôm Trung thu dắt díu nhau từng đàn từng lũ, rước đèn, rước sư tử, trống đánh vang cả đường, tiếng reo hò, tiếng đùa rầm rĩ. Lại nơi nọ trống quân, nơi kia hát trống quít. Tất cả những sinh hoạt này được gọi là Trung Thu thưởng nguyệt. Nhớ thuở bé cả tuần trước đại lễ chúng tôi lo chế biến lồng đèn bằng giấy vơi đủ kiểu tuỳ theo ý thích từng trẻ em hay hàng xóm. Sự cạnh tranh chưng bày lồng đèn nhiều khi gây ra rối loạn cho bà con xóm gần xóm xa. Con gái thì thi nhau làm tài khéo léo như gọt đu đủ thành các thứ hoa nọ hoa kia, nặn bột làm con tôm, con cá coi thật là đẹp.

Ngày nay trẻ em miền Tây ở hải ngoại quên đi tết Trung Thu ngoại trừ những cộng đồng to lớn. Các em hoà mình vào cộng đồng phương Tây và dự lễ Halloween. Thực ra lễ này giống lễ Vu Lan nhiều hơn Trung Thu. Theo người miền Tây thì lễ Vu Lan là dịp bố thí ma quỹ để mong những linh hồn chưa siêu thoát để yên cho con cái sống sót được nhiều sức khoẽ và làm ãn khấm khá…

Lễ cưới và hỏi của người miền Tây

Ở miền Tây ngày xưa tục tảo hôn (cưới xin) của dân ta có những điều không phù hợp với thời đại văn minh. Vợ chồng cưới nhau quá sớm cho nên thế hệ Ông cha ta thường có con cháu đầy nhà và nghĩ rằng có con cháu đầy nhà là có phúc nên nhiều gia đình có con lúc mười bốn mười lăm tuổi, sự phát triển trí lực chưa đầy đủ đã có vợ có chồng rồi. Nhiều khi con gái miệng còn hôi sữa đã về làm dâu nhà người ta. Vì vậy khi sanh con ra nhiều đứa trẻ còm cõi, khẳng khiu, khó nuôi, yếu ớt hoặc mang tật nguyền làm cho giống nòi không mạnh mẽ. Hơn nữa, tuổi trẻ là lúc học hành, tìm hiểu cuộc đời để có thể xây dựng mái ấm gia đình sau này vững mạnh, nhưng lại lấy vợ gả chồng thì coi như cả tương lai chỉ còn trông vào con cái thôi, trí tuệ không bao nhiêu. [6][7]

Ngày nay xã hội miền Tây đã thay đổi nhiều, trai gái có lấy nhau cũng phải chờ đến mười tám hai mươi mới lấỵ hay có thể trễ hơn. Bây giờ bậc cha mẹ cũng thường để cho con cái tự ý lựa chọn theo tính ý của mình và sự ép hôn đã giảm nhiều. Hai bên gia đình trai gái cũng không còn xem chuyện giàu nghèo là điều quan trọng trong chuyện cưới xin vì đó là sự thuận tình hai bên trai gái mà thôi. Có như vậy thì chính cô dâu và chú rể sau này cũng dễ hòa nhập với hai bên gia đình không phải buồn rầu nhiều vì lễ giáo độc đoán.

Trước khi tổ chức lễ cưới thì hai bên nhà trai và nhà gái đều phải không có tang chế hay vừa mãn tang. Lễ Cưới thì nhà trai viết thư hay cử người đại diện hỏi xem nhà gái muốn những lễ vật nào. Người ta gọi là tục Thách cưới. Nhà gái muốn những vật gì thì phúc đáp hay yêu cầu cho nhà trai. Nhà trai nếu có thể đáp ứng được thì mới chọn ngày lành tháng tốt, đính ước ngày cưới với nhà gái.

Khi rước dâu phải chọn giờ lành tháng tốt. Trong đám cưới có một ông già hiền lành hay ngày nay tiến bộ hơn là chàng trai trẻ ăn nói lưu lóat cầm một khai rượu với bao lì xì nhỏ màu đỏ đi trước hay gọi là chủ hôn, rồi đến các người dẫn lễ, người bưng mâm trầu cau, người khiêng heo mà ngày nay tiến bộ hơn người ta nhờ các anh chàng trai tráng đẹp trai trong vùng hay bạn bè người thân… Chú rể thì khăn áo lịch sự đi cùng với chủ hôn. Khi đến nhà gái, dâng bày đồ lễ, người chủ hôn nhà trai hay người đại diện nhà gái khấn lễ với tổ tiên rồi thì chú rể vào lễ bái. Hương án được bày ra sân, trên hương án có gà, xôi, giầu (trầu), rượu, tế tơ hồng xong rồi hai vợ chồng mới cưới được vào lạỵ Sau thủ tục xin phép nhạc gia và nhạc phụ, chú rể sẽ chuẩn bị rước dâu.

Khi đưa dâu thì nhà gái cũng như chủ hôn, chú rể cô dâu, bà con họ hàng nhà gái cùng đi sau. Đến nhà trai rồi thì bà mai dẫn cô dâu vào nhà chú rể lạy tổ tiên rồi đến cha mẹ chồng. Nếu chú rể còn ông bà thì cũng phải lạy ông bà bên chồng. Ông bà cha mẹ chồng thường thì mỗi người chúc mừng cho cô dâu chú rể bằng ít tiền tùy hỉ.

Sau tiệc đãi ăn uống xong thì họ hàng luôn có phần mang về do nhà trai tặng, thường thì xôi rượu thịt, bánh, trái cây, giò chả, v.v.v…

Quê hương miền Tây với những sông rạch chằng chịt, người dân thường di chuyển chủ yếu bằng đường sông. Có nhiều nơi mỗi ngày chỉ có một chuyến đò đưa rước để người dân có thể đi chợ và mua bán trao đổi hàng hóa với nhau. Chính vì lý do đó mà những đám cưới ở vùng quê miền Tây thường tổ chức vào buổi tối. Người Việt Nam thường đãi đám cưới riêng biệt giữa nhà trai và nhà gái. Từ  sáng sớm, các cô gái, chàng trai đã tụ tập lại để giúp đở cho nhà gái . Người giết heo, kẻ mổ gà vịt, người khác xắt rau, cải để nấu nướng. Không khí của một đám cưới vùng quê thật vui vẻ. Đây cũng là dịp để nam thanh nữ tú gặp nhau và từ đó nảy sinh những mối tình thật đẹp. Sau buổi trưa, cổ bàn đã xong xuôi tiệc bắt đầu từ trưa cho đến chiều. Buổi tối là lúc họ hàng nhà gái tụ tập lại để cô gái lạy tạ ông bà, cha mẹ, bà con để xuất giá theo chồng. Bên nhà trai thường rước dâu về vào buổi tối để sáng sớm hôm sau là đãi tiệc bên họ nhà trai.

Ở thành thị việc thách cưới ngày xưa thường nhiều hơn ở vùng quê và cũng không có lễ cưới vào ban đêm. Đám cưới thường vào ban ngày và sau đó đón cô dâu về nhà liền. Trong khi cưới và khi đón dâu, hai ông bà cầm hai cái lư hương ngồi trong xe che lọng xanh đi trước, rồi các người theo phụ mỗi người đội mâm cau trùm vải đỏ. Trong mỗi mâm có rượu, hoa quả trái cây. Ngày xưa thì đi bộ, sau đó đi xe kéo, hay xe song mã. Ngày nay cuộc sống có khá giả hơn thì mướn xe Mercedes-Benz để đưa đón dâu. Cô dâu chú rể chỉ tổ chức tiệc cưới cho bạn bè hay đồng nghiệp vào ban đêm hay vào cuối tuần cho thuận tiện những người tham dự ngày hôm sau phải đi làm việc. Tối hôm cưới, người chồng lấy trầu cau mà nhà trai được nhà gái trả lễ cho vợ chồng, trao một nửa cho vợ, rót một chén rượu, mỗi người uống một nửa và lễ này được gọi là lễ hợp cẩn.

Sau lể cưới được ba hôm, đến hôm thứ tư thì hai vợ chồng làm lễ xôi chè đem về bên nhà vợ lạy tổ tiên, lễ còn được gọi là tứ hỉ.

Older Posts »

Chuyên mục